GDVN
TS Trần Công Trục
31-3-2016
(GDVN) – Cách tốt nhất để “phản bác
luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch” là giải quyết một
cách sòng phẳng, khách quan, cầu thị…
LTS: Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam
nhận được bài viết của Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên
giới Chính phủ về nhận định của ông xung quanh chuyến thăm Việt Nam
của Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Thường Vạn Toàn và quan hệ Việt
Nam – Trung Quốc trong giai đoạn hiện nay.
Để rộng đường dư luận, Báo Điện tử
Giáo dục Việt Nam xin gửi đến quý bạn đọc bài phân tích này của
Tiến sĩ Trần Công Trục. Văn phong và nội dung bài viết thể hiện quan
điểm, góc nhìn của tác giả.
Tiến sĩ Trần Công
Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ trả lời phỏng vấn đài Phố Bolsa TV
về quan hệ Việt – Trung. Ảnh do tác giả cung cấp.
Sau chuyến thăm chính thức Việt Nam lần
đầu tiên của ông Tập Cận Bình trên cương vị nguyên thủ quốc gia Trung Quốc
tháng 11 năm ngoái, một sự kiện ngoại giao thu hút sự chú ý của dư
luận là chuyến thăm Việt Nam của Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc
Thường Vạn Toàn.
Bối cảnh đặc biệt của chuyến thăm
Chuyến thăm diễn ra từ ngày 26 đến ngày
29/3 năm nay. Ngày 30, 31/3 Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh lại
sang Quảng Tây dự hội đàm cấp cao biên giới Việt – Trung với ông
Thường Vạn Toàn, theo vtv.vn.
Như vậy hoạt động của ông Thường Vạn
Toàn trên lãnh thổ Việt Nam kéo dài 4 ngày, trên lãnh thổ Trung Quốc
sát biên giới với Việt Nam 2 ngày, một chuyến thăm khá dài và hiếm
gặp.
Trong khi tại Trung Quốc sáng 26/3 cả
thảy 9 Thượng tướng, thành viên Quân ủy trung ương Trung Quốc sau cải
cách đồng loạt hiện diện trong lễ Nghĩa vụ trồng cây tại xã Tôn Hà
khu Triều Dương, Bắc Kinh, vắng mỗi ông Tập Cận Bình – Chủ tịch Quân
ủy và ông Thường Vạn Toàn – Bộ trưởng Quốc phòng. Hai ông đều đi công
du nước ngoài.
Còn tại Hà nội, Quốc hội khóa XIII đang họp
kỳ họp cuối cùng để quyết định nhiều vấn đề hệ trọng, trong đó có vấn đề chuyển
giao quyền lực của 3 vị lãnh đạo chủ chốt của đất nước. Trên Biển Đông, các
hoạt động của Trung Quốc vi phạm các quyền và lợi ích của các quốc gia xung
quanh vẫn không ngừng diễn ra.
Gần nhất là vụ giàn khoan 943 rục rịch kéo
ra hoạt động tại khu vực chồng lấn ở cửa vịnh Bắc Bộ, bất chấp quy định của
Luật Biển quốc tế và thỏa thuận chính trị giữa 2 nước.
Ngay trong ngày hôm qua 30/3 khi Bộ trưởng
Quốc phòng hai nước còn đang hội đàm ở Quảng Tây, thì ông Hồng Lỗi, người phát
ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc công khai thừa nhận thông tin báo giới phản ánh
tuần trước, Trung Quốc đã bố trí bất hợp pháp tên lửa chống hạm YJ-62 ở đảo Phú
Lâm, Hoàng Sa (Đà Nẵng, Việt Nam).
Hồng Lỗi nói, chuyện này bình thường thôi,
không phải “quân sự hóa”.
Như vậy với Trung Quốc, chuyến thăm
Việt Nam lần này của ông Thường Vạn Toàn cũng là một hoạt động ẩn
chứa nhiều ý nghĩa đáng được dư luận quan tâm.
Thông điệp lạ từ chuyến thăm Việt Nam
của ông Thường Vạn Toàn
Người viết lấy làm lạ khi đọc được
bài báo “Bộ trưởng Quốc phòng TQ thăm VN, phản bác luận điệu xuyên
tạc” đăng trên báo điện tử vietnamnet.vn ngày
23/3/2016. Trong đó khi giới thiệu về nội dung chuyến thăm có đoạn:
“Đồng thời phản bác lại những luận điệu
xuyên tạc sai trái của các thế lực thù địch về những vướng mắc, bất đồng trong
quan hệ giữa hai nước thời gian qua.”
Lạ là vì đến giờ này khi ông Thường
Vạn Toàn đã rời khỏi lãnh thổ Việt Nam về Quảng Tây, Trung Quốc,
nhưng chưa thấy ông hay tùy tùng có phát biểu nào nhằm “phản bác lại
những luận điệu xuyên tạc sai trái của các thế lực thù địch về những vướng mắc,
bất đồng trong quan hệ giữa hai nước thời gian qua”.
Các cựu binh Trung Quốc tham gia chiến tranh xâm
lược toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam giai đoạn 1979 – 1989 hôm 28/3 tập
trung tảo mộ binh lính Trung Quốc chết trận trong cuộc chiến phi nghĩa này tại
Phòng Thành Cảng, Quảng Tây. Ảnh: QQ News.
Trong khi theo QQ News, ngày 28/3 hơn 4500
cựu binh và quyến thuộc từng tham gia Chiến tranh xâm lược toàn tuyến
biên giới phía Bắc Việt Nam giai đoạn 1979-1989 tập trung về Phòng
Thành Cảng, Quảng Tây để tảo mộ binh lính chết trận và kỷ niệm cái họ
gọi là “chiến tranh phản kích tự vệ chống Việt Nam”, một sự xuyên
tạc lịch sử trắng trợn về bản chất của cuộc xung đột.
Cho đến nay, Trung Quốc cùng với Nga
được các nhà ngoại giao Việt Nam xếp vào diện “đối tác chiến lược –
toàn diện”, nhưng lịch sử quan hệ Việt Nam – Trung Quốc kể từ khi
thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức đến nay đã trải qua nhiều
thăng trầm, có lúc hợp tác mật thiết, có lúc xung đột đối đầu và
để lại nhiều hệ lụy ngày hôm nay vẫn chưa giải quyết hết được.
Sau các sự kiện năm 1974 Trung Quốc xâm
lược nốt nửa phía Tây quần đảo Hoàng Sa, thì năm 1979 Trung Quốc cất
quân xâm lược toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam và xung đột kéo
dài đến mãi năm 1989.
Năm 1988 Trung Quốc xâm lược 6 bãi đã ở
quần đảo Trường Sa, và gần nhất là năm 2014 giàn khoan 981 hạ đặt
trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa Việt Nam gây ra
cuộc khủng hoảng tồi tệ trong quan hệ 2 nước.
Vụ giàn khoan 981 là một kế nghi binh
ngoạn mục để Trung Quốc thúc đẩy việc bồi lấp, xây dựng và quân sự
hóa đảo nhân tạo trái phép với quy mô chưa từng có trên ít nhất 7
thực thể họ chiếm đóng trái phép ở Trường Sa. Đó là những sự thật
lịch sử rõ như ban ngày mà không một “thế lực thù địch” nào có thể
xuyên tạc được.
Với mỗi người Việt Nam yêu nước, dù
một tấc đất do cha ông để lại cũng có ý nghĩa vô cùng thiêng liêng
cao cả và sẵn sàng hy sinh tính mạng và tài sản để bảo vệ, giữ
gìn cơ đồ cha ông cho con cháu mai sau.
Quyết không thể coi đó là “chuyện nhỏ”
hay “tiểu cục” như ông Tập Cận Bình nói trong chuyến thăm Việt Nam năm
ngoái, hay nói như bài báo trên vietnamnet.vnchỉ là “những vướng mắc, bất
đồng trong quan hệ giữa hai nước thời gian qua”.
Cá nhân người viết luôn ủng hộ chủ
trương giải quyết các tranh chấp bất đồng giữa Việt Nam – Trung Quốc
bằng biện pháp hòa bình, đối thoại trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Mà muốn đối thoại, thì những cuộc gặp cấp cao giữa lãnh đạo hai
nước có vai trò quan trọng.
Bởi vậy nên người viết hoan nghênh các
chuyến thăm Việt Nam của các nhà lãnh đạo Trung Quốc và ngược lại.
Vấn đề chính đặt ra là, trong nội dung chuyến thăm và làm việc, lãnh
đạo cấp cao hai nước đã đề cập và có hướng xử lý như thế nào về
các tranh chấp, bất đồng ấy.
Bởi lẽ chỉ có thái độ khách quan,
sòng phẳng và cầu thị với lịch sử mới giúp củng cố quan hệ hợp
tác giữa 2 nước thực sự bền vững, thực chất, mới hy vọng có được “niềm
tin chiến lược” như ai đó vẫn nói.
Cũng chỉ có khách quan, sòng phẳng và
cầu thị với lịch sử mới giúp Việt Nam và Trung Quốc vượt qua những
khúc quanh lịch sử, giải quyết tranh chấp bất đồng hiện tại và
hướng tới tương lai hợp tác, ổn định, lâu dài mà không một “thế lực
thù địch” nào có thể xuyên tạc hay chống phá được.
Nhưng người viết chưa thấy thiện chí
nhìn thẳng sự thật lịch sử với thái độ khách quan, sòng phẳng và
cầu thị từ các nhà lãnh đạo Trung Quốc. Dường như họ chỉ muốn tìm
cách khuyên răn chúng ta “khép kín” để quên đi quá khứ, muốn chúng ta “duy
trì hiện trạng” còn họ thì “lấn tới tương lai”.
Mọi người Việt Nam yêu nước đều ghi nhớ,
Trung Quốc chính thức cất quân tấn công toàn tuyến biên giới phía Bắc
Việt Nam ngày 17/2/1979 gây ra cuôc chiến tranh xâm lược đẫm máu ác liệt
kéo dài suốt 10 năm. Ngày 17/2 năm nay, người dân và các tổ chức Việt
Nam đã tưởng niệm đồng bào, chiến sĩ ngã xuống trong cuộc chiến bảo vệ Tổ quốc
vĩ đại này.
Ông Thường Vạn Toàn, Bộ trưởng Quốc phòng Trung
Quốc, ảnh: AP
Nhưng tại sao các cựu binh Trung Quốc
lại “đợi” đúng ngày 28/3 khi ông Thường Vạn Toàn đang ở Việt Nam để tổ
chức kỷ niệm, tảo mộ, dù vẫn còn nhận thức khác nhau về bản chất
và nguyên nhân cuộc chiến? Với người viết, đó là một sự việc “lạ
mà không lạ”.
Mục đích và kết quả chuyến thăm Việt
Nam của ông Thường Vạn Toàn
Mục đích thực chất chuyến thăm Việt
Nam của ông Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc thì chỉ có cá nhân ông
Thường Vạn Toàn và cộng sự mới biết rõ nhất. Những gì thể hiện
trên truyền thông có lẽ chỉ là phần nổi của tảng băng chìm.
Cũng giống như mọi hoạt động đối
ngoại khác trên thế giới, giới phân tích và quan sát chỉ có thể
“nhìn quả đoán cây”, chứ hiếm có người biết được chính xác mục
đích, ý đồ của người trong cuộc.
Kết quả chuyến thăm và làm việc tại
Việt Nam của ông Toàn được báo Thanh Niên phản ánh có thể tóm lại
thành mấy nội dung chính:
1) Đánh giá quan hệ hai nước về tổng
thể phát triển ổn định;
2) Trao đổi thẳng thắn về tranh chấp
trên biển, nhấn mạnh tiếp tục xử lý thỏa đáng qua đàm phán hòa
bình hữu nghị, căn cứ vào chế độ pháp lý và nguyên tắc được xác
định bởi luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hợp Quốc về
Luật Biển 1982, nỗ lực tìm kiếm giải pháp lâu dài hai bên có thể
chấp nhận được;
3) Nghiêm chỉnh tuân thủ thỏa thuận và
nhận thức chung lãnh đạo cấp cao hai nước đã đạt được, thực hiện DOC
và xúc tiến xây dựng COC;
4) Quân đội hai nước phải bình tĩnh,
kiềm chế, kiểm soát tốt tình hình, không để xảy ra xung đột, tăng
cường hợp tác thực chất và hiệu quả, tiếp tục khẳng định hợp tác
quốc phòng tiếp tục là một trong những trụ cột của quan hệ song
phương.
Cũng với nguyên tắc “nhìn quả đoán
cây”, người viết xin dẫn ra nhận định của tờ Đa Chiều, một tờ báo
người Hoa hải ngoại tại New York có quan điểm thân chính phủ Trung
Quốc, bình luận ngày 28/3 về mục đích chuyến thăm Việt Nam của ông
Thường Vạn Toàn lần này:
Ảnh chụp tiêu đề và một phần đầu bài báo trên
Đa Chiều ngày 28/3 bình luận về mục đích chuyến thăm Việt Nam của ông
Thường Vạn Toàn.
1) Xoa dịu phản ứng của Việt Nam với
việc tàu cá Việt Nam bị tấn công trên vùng biển Hoàng Sa ngày 6/3 và
ngày 7/3 do lo ngại có thể bùng lên phản ứng dữ dội từ dư luận như
vụ giàn khoan 981 năm 2014.
Nhất là gần đây Indonesia đã có những
động thái phản ứng gay gắt với hành vi của Trung Quốc xâm phạm vùng
đặc quyền kinh tế Natuna, Indonesia
phía Nam
Biển Đông;
2) Nhấn mạnh hợp tác giữa Trung Quốc
với các nước ASEAN vẫn lớn hơn bất đồng trên Biển Đông. Trong trường
hợp này là Việt Nam ;
3) Trấn an Việt Nam về các hoạt động quân sự
hóa đảo nhân tạo bất hợp pháp ở Biển Đông. (BBC tiếng Trung Quốc ngày
29/3 lưu ý, tháp tùng ông Toàn thăm Việt Nam còn có tướng Thẩm Kim Long, Tư
lệnh Hạm đội Nam
Hải).
4) Thăm dò thái độ của các nhà lãnh
đạo Việt Nam
sau Đại hội 12 về Biển Đông và quan hệ Việt – Trung.
Còn cá nhân người viết cho rằng, ngoài
4 mục đích mà tờ Đa Chiều chỉ ra, có thể còn có 2 mục đích quan trọng
khác trong chuyến thăm Việt Nam của ông Thường Vạn Toàn:
1) Thêm một lần nữa tìm cách ngăn cản Việt
Nam không được khởi kiện Trung Quốc như Philippines đã làm, nhất là
ngày ra phán quyết của PCA đang đến gần;
2) Cản trở khả năng Việt Nam hợp tác quân
sự với Hoa Kỳ, như việc đặt kho hậu cần tại Việt Nam mà một số quan
chức Mỹ đã tiết lộ, hoặc tìm kiếm việc truy cập cảng Cam Ranh…
Dù với mục đích nào, thì người viết
vẫn đánh giá cao kết quả chuyến thăm này, đặc biệt là việc thống
nhất quan điểm giải quyết tranh chấp trên Biển Đông trên cơ sở luật
pháp quốc tế, bao gồm UNCLOS và quân đội 2 bên kiềm chế không để xảy
ra xung đột đối đầu.
Vấn đề còn lại là chúng ta đấu tranh
như thế nào trong khuôn khổ luật pháp quốc tế? Hiểu và vận dụng
luật pháp quốc tế bao gồm UNCLOS như thế nào? Hiểu như thế nào về
duy trì hiện trạng trong khi Trung Quốc vẫn thúc đẩy quân sự hóa Biển
Đông?
“Binh bất yếm trá”
Người Trung Quốc có câu “Binh bất yếm
trá” với ý nghĩa, trong việc dùng binh, việc quân sự thì không loại trừ
gian kế, dối trá. Điều này khiến người viết bất giác nhớ đến Tập 35 “Khổ
nhục kế” của tác phẩm điện ảnh kinh điển Trung Hoa “Tam Quốc diễn
nghĩa” bản 1986 thể hiện rõ tư tưởng “binh bất yếm trá” của các nhà
lãnh đạo quân sự, chính trị Trung Quốc.
Sau khi Tưởng Cán trúng kế Chu Du làm
Tào Tháo giết nhầm 2 tướng thủy quân Sái Mạo, Trương Doãn, Tháo tức
tối tìm cách đối phó. Tào Tháo sai Sái Trung, Sái Hòa em họ Sái
Mạo sang trá hàng.
Chu Du tương kế tựu kế, dùng Hoàng Cái
vào “khổ nhục kế” trá hàng Tào Tháo để triển khai kế hỏa công trong
trận Xích Bích. Khổng Minh đứng ngoài quan sát, không một động tĩnh
nào của Chu Du thoát khỏi mắt ông ta, bởi trong “Tam Quốc diễn nghĩa”,
Khổng Minh là bậc thầy của “binh bất yếm trá”.
Sở dĩ người viết nhắc tới tác phẩm
văn học và điện ảnh kinh điển này là muốn nhấn mạnh, chính người
Trung Quốc đã dạy con cháu họ, việc quân sự và bang giao giữa các
nước thì không loại trừ gian kế, không ngại dối trá. Câu chuyện này
còn nhắc nhở chúng ta phải biết tương kế tựu kế hóa giải mưu gian
của đối phương.
Nếu như Trung Quốc muốn dùng “đại cục
– tiểu cục” để ràng buộc Việt Nam thì chúng ta phải dùng cái gốc
của “đại cục” để hóa giải. Gốc rễ của “đại cục” chính là lòng
dân.
Ông Tập Cận Bình thăm Việt Nam tháng 11
năm ngoái nhấn mạnh “đại cục – tiểu cục”. Sau đó sang Singapore, ông lại nhắc
lại tuyên bố Trung Quốc có “chủ quyền từ thời cổ đại với các đảo ở Biển Đông”, ảnh:
AP.
Việt Nam rất coi trọng và mong muốn chung
sống hòa bình, hợp tác hữu nghị với Trung Quốc. Nhưng để củng cố
được quan hệ hợp tác hữu nghị phát triển lâu dài, những mầm mống
xung đột cần phải được giải quyết dứt điểm một cách khách quan, cầu
thị, sòng phẳng và dựa trên luật pháp quốc tế.
Ngư dân Việt Nam vẫn bị tấn công ở vùng
biển quần đảo Hoàng Sa – một phần lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc đang bị
Trung Quốc chiếm đóng bất hợp pháp. Trung Quốc vẫn tiếp tục quân sự hóa
Biển Đông thì lấy đâu ra lòng tin và cơ sở củng cố quan hệ hai nước?
Họ muốn sang thăm dò mình, cũng tốt
thôi, hãy nhân những cơ hội thăm dò để chuyển tải thiện chí, lập
trường kiên định của mình bằng những thủ pháp mềm dẻo, khéo léo,
nên tìm cách tương kế tựu kế.
Do đó, về mặt đối ngoại thiết nghĩ
chúng ta vẫn phải vừa hợp tác, vừa đấu tranh trên cơ sở công pháp
quốc tế, lẽ phải và sự thật. Chúng ta hoan nghênh các nhà lãnh đạo
cấp cao Trung Quốc như ông Thường Vạn Toàn sang thăm, vì đó là cơ hội
cho đối thoại giải quyết các tranh chấp bất đồng, củng cố đoàn kết,
hòa bình, hữu nghị giữa 2 nước.
Tuy nhiên cũng phải hết sức tỉnh táo
trước bài toán “đại cục – tiểu cục” mà các nhà lãnh đạo Trung Quốc
đang triển khai. Về mặt ngoại giao chúng ta lắng nghe để sau đó phản
hồi, phản biện lại một cách thấu tình đạt lý, họ nghe được và ta
nghe được.
Còn về chính sách đối ngoại nói
chung, chúng ta cần giải thích cho họ hiểu, Việt Nam nhất quán chủ trương muốn làm
bạn bè tin cậy, đối tác có trách nhiệm với tất cả các quốc gia yêu chuộng hòa
bình và công lý.
Trung Quốc cũng là một đối tác bình
đẳng của Việt Nam như Hoa Kỳ hay Nhật Bản, Singapore, Philippines…Để dư luận
khu vực và thế giới hiểu lầm Việt Nam và Trung Quốc “nói riêng” với
nhau gì đó trên Biển Đông sẽ vô cùng nguy hại.
Về mặt đối nội, cũng cần giải thích
rõ cho nhân dân về phương châm vừa hợp tác, vừa đấu tranh trong quan hệ
với Trung Quốc, vừa bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ, vừa bảo vệ hòa bình ổn định khu vực và Biển Đông như thế nào.
Có như thế mới tạo được đồng thuận
xã hội, loại trừ bất ổn và tăng sức mạnh quốc gia trong đàm phán,
giải quyết tranh chấp với Trung Quốc và các nước khác trên Biển Đông.
Nhân dân Việt Nam, nhân dân Trung Quốc hay
bất cứ quốc gia nào trên thế giới cũng mong mỏi được sống trong hòa
bình, hợp tác và phát triển. Nhưng lãnh đạo một số quốc gia có vẻ
xem nhẹ điều này. Với họ trở thành siêu cường số một số hai thế
giới mới thực sự là mục tiêu, bởi lẽ ấy xung đột, chiến tranh trên
thế giới mới liên miên không dứt.
Vì vậy, người Việt Nam mặc dù
không bao giờ quên được những trang sử thấm đẫm máu và nước mắt của biết
bao thế hệ đã ngã xuống để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền thiêng
liêng của mình. Nhưng vì các quyền và lợi ích chính đáng của mỗi quốc gia, dân
tộc, vì hòa bình, hợp tác và phát triển, tiến bộ, người Việt Nam sẵn sàng
“gác lại quá khứ” để hướng tới tương lai.
Người Việt Nam rất coi trọng hòa bình,
hữu nghị với nhân dân Trung Quốc, nhưng cũng kiên quyết bảo vệ độc
lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Người dân Việt Nam mong muốn các nhà
lãnh đạo Trung Quốc hiểu rằng, cách tốt nhất để “phản bác luận
điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch” là giải quyết một cách
sòng phẳng, khách quan, cầu thị theo đúng tinh thần luật pháp quốc
tế các tranh chấp, bất đồng giữa hai nước trên Biển Đông và nhìn
nhận đúng đắn, khách quan về các sự kiện lịch sử, chứ không phải tìm
cách lảng tránh, che đậy nó để “thế lực thù địch” nào đó lợi dụng.
Cách tốt nhất để tránh chiến tranh, vun đắp
cho quan hệ hòa bình hữu nghị giữa Việt Nam và Trung Quốc là phải nỗ lực loại
bỏ tận gốc các mầm mống của chiến tranh xung đột trên cơ sở đàm phán hòa bình,
căn cứ theo luật pháp quốc tế.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét