Bùi Quang Vơm
11-3-2016
Phần 2: Thay đổi là tất yếu (Bài
2). Tiếp theo Bài
1. Mời đọc lại: Liệu Việt Nam có thể tự cải cách?
(Phần 1)
5- Có mô hình kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa không?
Mặc dù đổi mới được cho là bắt
đầu từ Đại hội VI năm 1986, nhưng thuật ngữ kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa mãi tới đại hội IX năm 2001 mới xuất hiện,
trong văn kiện của đảng. Suốt thời gian dài 15 năm là sự vật vã,
giằng co về nhận thức. Thị trường bị hiểu là đặc trưng của riêng
chủ nghĩa tư bản. Chấp nhận thị trường là chấp nhận tư bản chủ
nghĩa, phản bội lý tưởng xã hội chủ nghĩa, phản bội chủ nghĩa Mác
Lênin. Vì vậy, Đại hội VIII tháng 6 năm 1996 xác định:
– Kinh tế thị trường không phải là
cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển chung
cuủa nhân loại.
– Kinh tế thị trường tồn tại khách
quan trong thời kỳ qúa độ lên chủ nghĩa xã hội.
– Cần thiết sử dụng kinh tế thị
trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đây là bước đệm về nhận thức để
đến Đại hội IX năm 2001, kinh tế thị trường chính thức được thừa
nhận là một chỉnh thể kinh tế, nhưng được ghép thêm cái đuôi Định
hướng xã hội chủ nghĩa để khẳng định đảng cộng sản Việt Nam không
phản bội chủ nghĩa Mác Lênin, không đi chệch sang con đường phát triển
tư bản chủ nghĩa.
Báo cáo chính trị đại hội IX ghi
rõ:
“Kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo.kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng vững chắc. Chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về tư
liệu sản xuất chủ yếu từng bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi
chủ nghĩa xã hội được xây dựng xong về cơ bản”.”
15 năm sau, Báo cáo chínhn trị đại
hội XII, tháng 01 năm 2016 vẫn xác định “con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển
của lịch sử.
Thống nhất nhận thức nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ,
đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng
xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền
kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; có quan hệ sản xuất tiến
bộ phù hợp vối trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế”.
Tại sao như vậy, tại sao suốt 30
năm, đảng cộng sản Việt Nam vẫn không hiểu được, hay cố tình không
hiểu bản chất không tưởng của chủ nghĩa xã hội và hai khái niệm
Thị trường và Chủ nghĩa xã hội là hai khái niệm không thể trộn
lẫn. Để hiểu điều này, cần nhắc lại một chút.
– Kinh tế xã hội chủ nghĩa là nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế kế
hoạch hóa là nguyên tắc cân đối giữa nguồn lực và các mục tiêu xã
hội. Các mục tiêu xã hội được xác định một cách chủ quan và duy ý
chí cho từng giai đoạn, thường là 5 năm, và được thể hiện trên các
văn kiện của Đại hội đảng, như bác cáo chính trị và nghị quyết Đại
hội. Căn cứ trên các mục tiêu được chi tiết hóa bằng những chỉ tiêu
kinh tế xã hội, Chính phủ lập ra kế hoạch thực hiện, dựa trên tài
nguyên quốc gia, các nguồn lực xã hội và năng lực sản xuất của nền
kinh tế mà nhà nước là chủ sở hữu duy nhất. Sản phẩm tạo ra từ
nền kinh tế được phân phối hoàn toàn cho nhu cầu xã hội, vì vậy
không có tính hàng hóa. Về lý thuyết, đây là sự cân đối khép kín
từ sản xuất tới tiêu thụ. Không có thị trường, hệ thống giá chỉ có
tính quy ước, do chính phủ tự đặt ra. Tất cả chỉ là thực hiện các
chỉ tiêu đã được kế hoạch hóa từ trước.
– Kinh tế thị trường là nền kinh
tế trong đó mọi hoạt động kinh tế đều phải tuân thủ các quy tắc
phát sinh từ các quy luật của thị trường, đó là luật cung-cầu, luật
cạnh tranh và quy luật lợi nhuận. Điều kiện để một nền kinh tế được
gọi là kinh tế thị trường cần có:
1- kinh tế hàng hóa, trao đổi
hàng hóa là nhu cầu thiết yếu, là một cơ chế không thể thiếu.
2- sở hữu cá thể, là quyền tối cao của chủ sở hữu trong quan hệ trao đổi.
3- tự do cá nhân, là quyền tự chủ tối cao và tuyệt đối của mọi tác nhân kinh tế trong các quyết định kinh tế.
2- sở hữu cá thể, là quyền tối cao của chủ sở hữu trong quan hệ trao đổi.
3- tự do cá nhân, là quyền tự chủ tối cao và tuyệt đối của mọi tác nhân kinh tế trong các quyết định kinh tế.
Rõ ràng hai mô hình trên là
hai mô hình đối kháng, loại bỏ lẫn nhau, nhưng sau 30 năm , cả hệ
thống Hội đồng lý luận TW cộng với bộ máy Tuyên giáo, có đến hàng
trăm giáo sư tiến sĩ, vẫn không thể đưa ra được lời giải thích. Trả
lời thắc mắc của các cán bộ lãnh đạo tỉnh, tại Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, ngày 3/5/2014, Bộ trưởng bộ Kế hoạch đầu tư Bùi
Quang Vinh nói:“Chúng ta cứ nghiên cứu mô hình đó, mà mãi có tìm ra đâu. Làm
gì có cái thứ đó mà đi tìm”.
Như vậy, ở đây có điều gì bí ẩn.
Một điều gì đó đang được cố che giấu. Kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Nếu định hướng có nghĩa là hướng
tới, thì chúng ta sẽ hỏi, kinh tế thị trường hướng tới xã hội chủ
nghĩa là thế nào. Nếu ở đây, hai chữ “định hướng” cuả đảng hàm ý
đảng sẽ biến Thị trường dần dần thành Xã hội chủ nghĩa. Có nghĩa
những đặc trưng của kinh tế thị trường, như sở hữu tư nhân sẽ dần
dần trở thành sở hữu nhà nước, kinh tế tư nhân, tư bản sẽ bị thủ
tiêu. Như vậy, chủ trương kinh tế đa thành phần, đa sở hữu chỉ là một
cái bẫy, là sự lừa đảo, chỉ là việc “nuôi cho béo”, nhằm rút kiệt
sức dân cho mục tiêu xây dựng nền móng của chủ nghĩa xã hội trong
giai đoạn quá độ. Đảng không nói sau thời kỳ quá độ này, đảng sẽ
quay lại thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp như
thế nào. Đây còn là một bí mật. Vì nếu xảy ra như cái kịch bản
tưởng tượng ở mục 4 trên kia, thì dù không biết có máu chảy hay
không, chắc chắn là có nhiều nước mắt.
Có khả năng thứ hai, chữ “định
hướng” không có nghĩa là “quá độ”, tức là không có chuyện quay về
con đường xã hội chủ nghĩa. Đảng cộng sản thừa nhận nền kinh tế
thị trường như một định chế của chế độ, một nền kinh tế thị trường
đích thực và đầy đủ như mọi nền kinh tế thị trường trên thế giới.
Có nghĩa là đảng cộng sản Việt Nam thừa nhận sở hữu cá thể và tự
do cá nhân một lần cho suốt đời. Chữ “định hướng” hàm ý điều chỉnh
khuyết tật của nền kinh tế thị trường tự do thuần tuý để hướng tới
các mục tiêu nhân đạo của xã hội. Như vậy, Thị trường sẽ là nơi làm
ra của cải, vì đúng với sở trường là năng động và hiệu quả, dưới
tác động của cạnh tranh và lợi nhuận, Thị trường sẽ là một đảm
bảo tốt nhất cho việc tạo ra lượng của cải nhiều nhất. Phúc lợi sẽ
được phân phối và tái phân phối cho các mục tiêu nhân đạo của xã
hội, tạo ra sự cân đối hài hoà cho toàn bộ xã hội trên nguyên tắc
công bằng, đồng thuận và đảm bảo tăng trưởng. Ở giữa Thị trường và
Xã hội là Nhà nước.
Đây là mô hình mà bộ trưởng Bùi
Quang Vinh đang tìm. Nhưng bộ chính trị đảng cộng sản Việt Nam không
biết có thực lòng muốn tìm không, vì nó đang tồn tại không ở đâu xa,
trong khi cả bộ máy lý lận đảng tìm suốt 30 năm không thấy. Đó là
một nghịch lý, khiến người ta tự hỏi, hoặc trí tuệ đảng có vấn
đề, hoặc đảng đang cố tình lừa dối dân chúng.
Mô hình này là mô hình gọi là
“Thị trường xã hội” là thể chế kinh tế phổ biến ở gần như tất cả
các nước phát triển nhất ở châu Âu lục địa già. Đặc biệt ở các
nước bắc Âu, như Thuỵ điển, Na uy, Phần Lan, Đan mạch, Đức, Bỉ
Luxembourg, Pháp, Anh. Ở những nước này, quyền con người và tự do cá
nhân là nguồn gốc và cũng là mục đích của Luật pháp và của mọi
chính sách kinh tế xã hội. Có nghĩa là Thị trường được bảo hộ để phát
triển tối ưu, và xã hội được thụ hưởng xứng đáng nhất các hiệu
quả của tăng trưởng kinh tế.
Có gì là mâu thuẫn khi đảng cộng
sản vẫn giữ nguyên lý tưởng xã hội chủ nghĩa nhân đạo của mình mà
không cần phải là Mác xít Lêninít. Và có cần phải là cộng sản để
thỏa mãn ước nguyện vừa giàu có vừa công bằng dân chủ văn minh không?
Rõ ràng, quyền con người và tự do cá nhân không hề cản trở ca mục
tiêu xã hội nhân đạo. Chỉ còn điều duy nhất cần, là đảng tự thay
đổi.
6- Tự do kinh tế tất yếu tự do
chính trị
– Tự do kinh tế là tự do kiếm
sống, tự do mưu sinh là một biểu hiện của tự do cá nhân, là quyền
của Tạo hóa, bất khả tước đọat. Trong tự do cá nhân có tự do ngôn
luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do nghiệp đoàn, tư do tôn
giáo tín ngưỡng, tự do tư tưởng.
– Chính trị là tập hợp, là hiệp
hội hay tổ chức của những cá thể cùng có chung, cùng chia sẻ hay
cùng tôn thờ một tư tưởng, một tín ngưỡng. Vì vậy, bản chất của xã
hội tự do là Đa nguyên, nó chỉ bị biến dạng, bóp méo khi bị tước
đoạt một cách bất chính bởi một lực lượng chính trị nào đấy. Sự
tước đoạt đó chỉ tồn tại khi duy trì được áp lực cưỡng chế thông
qua các công cụ quyền lực. Khi dỡ bỏ các áp lực nhân tạo đó, xã
hội lập tức trở về trạng thái vĩnh cửu, tức là quay về bản chất
Đa Nguyên của nó.
– Thị trường là sở hữu tư nhân
cộng với tự do cá nhân, sở hữu trí tuệ trong kinh tế tri thức là
một loại tư liệu sản xuất bất khả công hữu hóa. Sở hữu cá thể các
sản phẩm trí tuệ chính là tự do tư tưởng. Tự do tư tưởng cộng với
tự do nghiệp đoàn là tự do chính trị.
– Kinh tế thị trường có quy luật
tự do cạnh tranh. Luật tự do cạnh tranh quy định quyền tự do nghiệp
đoàn của các tác nhân kinh tế để bảo vệ quyền lợi của mình. Tự do
nghiệp đoàn là tự do lập hội. Hội là tập hợp hay tổ chức của các
cá thể có cùng hoặc chia sẻ một loại lợi ích, có thể là lợi ích
vật chất và có thể là lợi ích phi vật chất, lợi ích tinh thần. Đó
chính là tự do chính trị.
Vì vậy khi thừa nhận tự do kinh
tế, đương nhiên là thừa nhận tự do cá nhân. Thừa nhận tự do cá nhân
là thừa nhận tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng. Tự do tư tưởng cộng
với tự do nghiệp đoàn là tự do đảng phái. Một xã hội đa đảng phái
là xã hội đa nguyên chính trị. Đa nguyên chính trị thì không có độc
quyền chính trị, nghĩa là dân chủ. Như vậy tất cả chỉ là một, một
cái gốc. Cái gốc đó là tự do cá nhân.” Con người sinh ra tự do, Tạo
hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được”.
Các Hiệp định tự do thương mại FTA
Việt Nam ký với các nước và Liên Hịệp châu Âu, TPP với Mỹ và các
nước Thái Bìng Dương, là các Hiệp định được soạn thảo trên căn cứ
lợi ích cá nhân và quyền con người. Cam kết với các Hiệp định này,
đảng cộng sản dường như đã chấp nhận một lộ trình cải tổ. Đây có
thể là một cải cách tiệm tiến hoà bình. Một cách mượn các Hiệp
định để hợp thức hóa dần các thay đổi từ bên trong, kể cả những
thay đổi về chất mà không bị cản trở bởi lý luận học thuyết.
7- Nhà nước và vai trò của nhà
nước.
Trong mô hình cơ cấu xã hội hiện
đại bao gồm Thị trường – Nhà nước – Xã hội. Nhà nước là một định
chế Trung gian, gạch nối giữa Thị trường và Xã hội.
Như chúng ta đã thấy trong phần
trước, chức năng nguyên thuỷ của Nhà nước là Trọng tài, hay Quan toà.
Cho dù xã hội đã qua hàng nghìn năm từ khi trở thành một bộ máy
công quyền có tính chuyên nghiệp, Nhà nước hiện đại không thể chối
bỏ chức năng cơ bản là trung gian phân giải, điều hoà các xung đột
giữa các tác nhân khác nhau trong xã hội. Với chức năng hòa giải,
Nhà nước phải không chịu ràng buộc hoặc gắn kết lợi ích với bất
cứ bên nào trong các bên xung đột. Nhà nước phải là cơ quan không tham
gia trực tiếp vào các hoạt động vì vụ lợi, kể cả lợi ích đó là
lợi ích công.
Trong một xã hội công nghiệp, các xung
đột thông thường là những xung đột giữa một bên là doanh nghiệp và
một bên là lao động làm thuê. Những xung đột này, nếu không được giải
quyết thỏa đáng, sẽ gây tổn thương cho bên bị thiệt hại, tác động
tiêu cực tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, giảm lợi nhuận,
giảm khả năng đóng góp của doanh nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp tới
ngân sách nhà nước, từ đó tác động tiêu cực tới các giải pháp phúc
lợi xã hội. Với bản tính vị kỷ, giới chủ doanh nghiệp thông thường
có xu hướng giữ lại cho mình quá phần lợi ích thích đáng. Muốn để
có thể giải quyết được các xung đột này, Nhà nước phải thật sự là
Trung tính, khách quan, không có lợi ích gắn với bên nào, đảm bảo uy
lực đối với cả hai phía. Nhà nước không trực tiếp làm kinh tế. Các
lĩnh vực không có tư nhân tham gia kinh doanh, do không có khả năng sinh
lợi, nhà nước mời thầu với lãi suất định mức tính trước, coi như một
khoản thuế âm.
Trong xã hội dân chủ hiện đại, Nhà
nước và Chính phủ là hai bộ phận tách rời. Chính phủ luôn có
khả năng luân chuyển theo định kỳ bầu cử, thường mang tíng đảng. Trong
khi Nhà nước là công cụ chuyên môn thuần tuý, sẵn sàng phục vụ bất
cứ chính phủ nào, vì vậy, Nhà nước là bộ máy phi chính trị và
trung lập, có kết cấu tinh gọn và chuyên nghiệp nhất.
Mọi chính sách sẽ được thể hiện
bằng pháp luật. Với mỗi chính sách, thay vì ra Nghị định và Thông tư
chỉ có giá trị quy phạm nội bộ và hành chính, Chính phủ ra một
luật hay bộ luật tương ứng. Quy trình phê chuẩn luật vẫn theo nguyên
tắc Quốc hội là cơ quan lập pháp cao nhấtb quyết định bằng bỏ phiếu
kín hay biểu quyết công khai. Nhưng sau khi ban hành luật thì không phải
chính phủ là người duy nhất giám sát mà là tư pháp. Vi phạm pháp
luật sẽ bị truy tố bất kể người đó là ai. Vì một khi đã thành
luật thì cái được bảo vệ là lợi ích bao trùm của cộng đồng là
lợi ích cao nhất, lợi ích tối thượng. Ngay cả vai trò trung tính của
Nhà nước cũng được quy định bằng Luật Nhà nước. Đó là nhà nước
Pháp quyền.
Đảng phái hay lực lượng chính trị
thắng cử, có quyền lập ra chính phủ, thường là đảng chiếm được số
ghế lớn nhất trong quốc hội hay cơ quan lập pháp. Đấy chính là đa số
phiếu đảm bảo cho việc phê chuẩn các bộ luật thể hiện đường lối và
chính sách của đảng, theo chương trình đã dẫn đảng đến thắng lợi
của trong chiến dịch tranh cử.
Trong xã hội dân chủ hiện đại, cơ
chế điều chỉnh sự bóc lột thô bạo của chủ nghĩa lợi nhuận thuần
tuý không phải là Nhà nước. Nhà nước không bảo vệ lợi ích của các
tác nhân riêng rẽ trong xã hội. Chức năng đó là của các tổ chức
tình nguyện dân sự hay là xã hội dân sự. Tổ chức dân sự là các tổ
chức tình nguyện không vụ lợi, hoạt động có mục đích bảo vệ quyền
lợi của hội viên. Có các tổ chức đại diện những người lao động làm
thuê, nhưng cũng có các tổ chức dân sự của giới chủ doanh nghiệp.
Xung đột giữa các hội đại diện sẽ được giải quyết thông qua thương
lượng dưới sự giám sát và chứng kiến của nhà nước. Giải tỏa các
xung đột trên lợi ích cộng đồng, nghĩa là không bên nào bị thiệt,
hướng tới lợi ích chung là tăng trưởng. Trong tăng trưởng có lợi
nhuận của nhà doanh nghiệp, có tiền lương của người lao động, có
thuế thu nhập và thuế doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng… giúp tăng
ngân sách, từ đó tăng khả năng phân phối phúc lợi xã hội. Nhà nước
sẽ là trung gian tạo mọi điều kiện cho tăng trưởng, lấy tăng trưởng
làm mục đích và quy tắc cho mọi hoà gỉải. Tăng trưởng bao gồm lợi
nhuận của doanh nghiệp vừa để tăng tích luỹ năng lực mở rộng sản
xuất của doanh nghiệp, vừa thỏa mãn nhu cầu lợi nhuận, khuyến khích
đầu tư của chủ doanh nghiệp. Trong tăng trưởng có tăng lương, tăng thu
nhập thực tế của người lao động, trên cơ sở tỷ lệ ăn chia hợp lý
theo nguyên tắc tạo ra tăng trưởng. Trong tăng trưởng có tăng trưởng năng
lực điều phối phúc lợi xã hội do tăng nguồn thu ngân sách dựa trên
của cải tạo ra từ tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng phúc lợi là tăng
trưởng an sinh xã hội, là tăng trưởng văn hóa và văn minh xã hội, tăng
sức mua , tăng khả năng tiêu thụ từ chính bản thân nền kinh tế, đảm
bảo tăng trưởng bền vững. Đây chính là vai trò kiến tạo tăng
trưởng của Nhà nước.
Phản ứng của các tổ chức dân sự
từ cả hai phía lao động và chủ doanh nghiệp, phản ánh chất lượng
các bộ luật hay luật do chính phủ ban hành. Các luật hay bộ luật có
tác haị hay có vi phạm sẽ bị đưa ra toà mà người bị đơn là Chính
phủ.
Như vậy, khả năng khắc phục những
khuyết tật của thị trường thuần tuý gồm xã hội dân sự và Nhà nước
trung tính, hay nhà nước kiến tạo là hai trụ cột chính của một xã
hội mang tính chất xã hội chủ nghĩa.
Để có một xã hội có tính xã hội
chủ nghĩa nhất, trong thời điểm hiện nay là mô hình kinh tế Thị
trường xã hội châu Âu. Công thức của nó là Thị trường tự do + Nhà
nước Trung tính+ Xã hội dân sự.
Không phải cứ mang tên cộng sản là
có được công bằng và thịng vượng. Nếu để đạt được giàu có và công
bằng thì cách gọi tên chế độ là gì có quan trọng lắm không. Ở Cộng
hoà Liên bang Đức, trong tên nước không có gì là cộng sản. các đảng
luân phiên nhau cầm quyền từ hơn 70 năm nay không có đảng nào là cộng
sản, nhưng đây là nơi có chế độ xã hội nhân đạo và văn minh nhất. Con
người được hưởng thụ hiệu quả tăng trưởng tốt nhất. Đảng cộng sản
Việt Nam cũng sẽ thay đổi, vì không thể không thay đổi, vì thay đổi
là tất yếu.
8- Việt Nam không thể không thay đổi
Đã đến cái thời điểm mà đề tiếp
tục tồn tại Việt Nam không thể không thay đổi.
* Dân chủ để bảo vệ chủ quyền
– Dân chủ hóa Việt nam, dựa vào cơ
chế Trưng cầu dân ý để chống laị và làm thất bại âm mưu bành trướng
của nhà cầm quyền cộng sản Trung Hoa.
– Dùng dân chủ Việt Nam làm động
lực dân chủ hóa Trung Quốc như một giải phảp lâu bền và chắc chắn
nhất để bảo vệ chủ quyền.
*Nhu cầu thay đổi hướng tới dân chủ
là thực thế không thể đảo ngược
– Thời kỳ đói khát đã qua. 30 năm
cởi trói, người dân Việt đói khát quá lâu đã lao vào cuộc tìm kiếm
giàu có đã chỉ là những cuộc giành giật giữa dân chúng với nhau đã
lắng xuống. Nhu cầu kiếm sống và làm giàu đã trở nên không còn gay
gắt, một mặt, đời sống đã trở nên dễ chịu với cái đói đã thật sự
lùi xa với gần 90% dân số, một mặt cơ hội giành giật của trời, do
chuyển đổi từ một xã hội mà mọi tài sản, mọi của cải không có
chủ sở hữu thực sự cũng đã cạn và đang dần dần có chủ, xã hội
dân sự Việt Nam đang hồi tỉnh. Với bản năng nhậy cảm , con người Việt
nam sẽ ý thức được nhanh chóng nguyên nhân của mọi nguyên nhân là chế
độ. Nhu cầu phải có một Việt Nam tự do, dân chủ như các nước xung
quanh. Việt Nam phải có tốc độ phát triển và xã hội phúc lợi tiên
tiến vượt hơn hẳn các nước khác, đã là một đòi hỏi có thật và
bức thiết.
– Thời đại thông tin với một
cộng đồng công dân tới 40 triệu người, một khi chín muồi các điều
kiện, sẽ là một cuộc cách mạng không gì ngăn cản nổi.
– Một Xã hội dân sự Việt Nam đích
thực đã hình thành, đang phát triển rất nhanh về số lượng chất lượng,
đang trở thành một làn sóng không thể trấn áp được bằng bạo lực.
– Giới trí thức tinh hoa của xã
hội Việt Nam đã có một bước nhảy lớn và quyết định trong nhận thức
vai trò của mình và đang thoát dần sự lệ thuộc ý thức hệ với chế
độ sẽ là một động lực có ý nghĩa quyết định.
– Nhu cầu hoà hợp hoà gỉải dân
tộc khỏi những hận thù quá khứ, giải phóng con đường quy tụ dân tộc
đang trở thành một thúc ép không thể từ chối và lẩn tránh.
Chỉ có thể thay đổi hẳn về chất,
thay đổi một cách hoàn toàn và triệt để, đảng cộng sản mới đáp
ứng được các đòi hỏi thúc bách đó, và mới tránh được bị đào thải
bằng một giải pháp bạo lực đại chúng.
Paris 11/03/2016
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét