Trọng Đạt
24-3-2016
Từ trái sang phải: TT Lyndon Johnson,
tướng William Westmoreland, TT Nguyễn Văn Thiệu và
Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ, năm 1968. Nguồn: Getty
Lyndon Baines Johnson
là một trong bốn chính khách Mỹ đã giữ hai chức vụ ngành Hành pháp và hai chức
vụ Lập pháp. Từ 1937-1949 ông là Dân biểu Liên bang đơn vị Texas, từ 1949-1961
ông thành Thượng nghị sĩ, từ 1961-1963 ông trở thành Phó tổng thống và từ
1963-1969 ông thành Tổng thống thứ 36 của Hoa Kỳ.
Lyndon Johnson là nhân
vật quan trọng đã hai lần nắm giữ vận mạng Đông Dương và ảnh hưởng tới sự sống
còn của mảnh đất này.
Điện Biên Phủ tháng
4-1954
Từ 1946-1949 Việt Minh
(VM) rút vào hậu phương đánh du kích, Pháp không đủ quân nên chỉ giữ được các
tỉnh thành. Từ 1950 trở đi, được Trung Cộng giúp đỡ, huấn luyện và viện trợ
quân sự, Việt Minh ngày càng mạnh, càng đông. Năm 1950 Trung Cộng giúp VM thành
lập năm sư đoàn chính qui: Tháng 10-1950 VM đánh thắng trận Cao Bắc Lạng,
nó đã làm rung động cả nước Pháp, quân viễn chinh bị thiệt hại 7,000
người và nhiều vũ khí.
Đầu thập niên 50 Mỹ
bắt đầu viện trợ cho Pháp nhưng thực sự giúp từ 1952. Tháng 5-1953 Ba Lê cử
Tướng Henri Navarre sang làm Tư lệnh quân viễn chinh Đông Dương ở thời điểm mà
ông bi quan cho là Đông Dương đang hấp hối, từ từ mất vào tay Công sản
Cuối tháng 7-1953
Triều Tiên đình chiến, Trung Cộng cung cấp nhiều viện trợ cho VM hơn trước, Mỹ
cũng tăng viện trợ cho Pháp, năm 1954 Mỹ đã gánh 75% chiến phí. Cuối năm 1953 Navarre được
lệnh bảo vệ Thượng Lào (1) và ông đã chọn thung lũng Điện Biên Phủ cho đóng đồn
lũy để chận đường chuyển quân của địch sang Lào và mở mặt trận lớn tại đây để
VM khỏi đánh Hà nội. Nay tại Đông Dương quân lưu động VM rất mạnh tương
đương với 9 sư đoàn, gấp ba quân lưu động Pháp gồm 7 Liên đoàn lưu động và 8
tiểu đoàn nhẩy dù (2)
Việt Minh đưa gần hết
các sư đoàn chính qui của họ vào trận đánh tại ĐBP tổng cộng 63,000 người (3)
Pháp có 12 tiểu đoàn tại đây, sau cho nhẩy dù thêm 5 tiểu đoàn tổng cộng khoảng
16,000 người. Pháp phải đối với một lực lượng đông gấp 4 lần cộng với hỏa lực
rất mạnh.
Ngày giao chiến đầu
tiên 13-3-1954 căn cứ Béatrice sụp đổ trước trận pháo kích dữ dội của 40 khẩu
pháo VM, hôm sau căn cứ Gabrielle cũng bị đánh sập. Tình hình quân sự ĐBP ngày
một xấu, phi trường bị pháo kích hư hại, sau ngày 26-3-1954, khu lòng chảo chỉ
còn tiếp tế tăng viện bằng thả dù quân lính cũng như lương thực, đạn dược.
Người Pháp khinh địch,
đã chọn địa điểm xa xôi, hiểm trở để lập căn cứ chỉ liên lạc với hậu cần bằng
máy bay trong khi không quân Pháp quá yếu, toàn chiến trường Đông Dương chỉ có
khoàng 200 máy bay (4). Tiếp tế bằng thả dù rất khó khăn vì bị phòng không địch
cản trở, nhiều kiện hàng thực phẩm, đạn dược đã lọt sang khu vực VM. Kể từ sau
ngày 26-3 số phận của Điện Biên Phủ coi như đã được quyết định rồi.
Trước đây Pháp và Mỹ
đều tin tưởng vào đồn lũy kiên cố này, nay đã thấy nguy cơ ĐBP sẽ thất thủ. Từ
cuối tháng 3-1954, Tòa Bạch Ốc đã nghiên cứu kế hoạch cứu nguy ĐBP bằng oanh
tạc ồ ạt với khoảng gần 100 oanh tạc cơ hạng nặng B-29, mỗi chiếc mang 9 tấn
bom cùng với 400 máy bay chiến đấu hộ tống. Kế hoạch này lấy mật danh Kên Kên
do Đô đốc Arthur Radford, Tham mưu trưởng liên quân đề nghị được Tổng thống
Eisenhower, Phó Tổng thống Nixon, Bộ trưởng ngoại giao Foster Dulles ủng hộ,
chấp thuận.
TT Eisenhower muốn hỏi
ý kiến Quốc hội vì rút kinh nghiệm chính phủ Truman tham chiến tại Triều Tiên
không đưa ra Quốc hội đã bị chỉ trích. Kế hoạch này được các sử gia Bernard
Fall và Philippe Devillers tường thuật lại thập niên 60 (5). Mấy năm gần đây,
Giáo sư Fredrik Logevall và ký giả Ted Morgan đã đề cập lại đề tài này trong
hai tác phẩm lớn của họ (6)
Ngày thứ bẩy 3-4-1954,
tám vị đại diện Quốc hội được mời tới Bộ ngoại giao để hội thảo bí mật với các
vị đại diện Hành pháp. Phía Quốc hội gồm Johnson, trưởng khối thiểu số Thượng
viện (Texas, DC), Thượng nghị sĩ Richard Russell (Georgia, DC), TNS Earle
Clements (Kentucky, DC), TNS Eugene Millikin (Colorado, CH), Trưởng khối đa số
Thượng viện William Knowland (California, CH), Chủ tịch hạ viện Joseph Martin
(Massachusetts, CH), Trưởng khối thiểu số Hạ viện John W. McCormack
(Massachussets, DC) và Percy Priest dân biểu (Tenessee, DC).
Tổng thống đi nghỉ tại
Camp Davis, Bộ trưởng ngoại giao Foster Dulles chủ tọa phiên họp với các thành
viên Tham mưu trưởng liên quân (TMTLQ) Đô đốc Arthur Radford, Phụ tá Bộ
trưởng quốc phòng Roger Keys, Thứ trưởng ngoại giao Walter Smith (7)
Không khí căng thẳng
ngay từ đầu, Dulles mở đầu nói Tổng thống yêu cầu ông triệu tập buổi họp, sau
đó ông nói chính phủ cần Quốc hội ra quyết định cho phép Tổng thống dùng hải,
không quân tại Đông Dương , TT tin tưởng Quốc hội và tòa Bạch ốc cùng một trang
sử đối với cuộc chiến. TMTLQ Đô đốc Radford phác họa tình hình nguy kịch Điện
Biên Phủ, có thể sụp đổ bất cứ lúc nào. Dulles đồng ý hoàn toàn với
Radford và nói thất bại tại ĐBP sẽ đưa tới tai họa, Pháp sẽ rút hết và CS
sẽ chiếm toàn cõi Đông Dương. Vòng đai phòng thủ Á châu của Mỹ bị đe dọa, nếu
Đông Dương mất Đông nam Á, Nam Dương cũng sẽ mất theo. Để tránh thảm họa Dulles
kêu gọi Quốc hội hãy yểm trợ Tổng thống để ông có thể xử dụng không lực, hải
quân trong vùng nếu cần thiết cho quyền lợi an ninh quốc gia.
Thượng nghị sĩ
Knowland (CH) ủng hộ ngay. TNS Clements (DC) hỏi Đô đốc Radford có phải việc xử
dụng không quân để cứu Pháp tại ĐBP đã được cả Bộ tham mưu liên quân đồng ý?
Radford trả lời: không
có ai
Clements hỏi tiếp: Thế
thì ông hy vọng gì?
Radford nói tôi ở Viễn
đông nhiều hơn họ và hiểu tình hình hơn họ.
Sau đó TNS Lyndon
Johnson (DC) nói: Chúng tôi không muốn một cuộc chiến Triều Tiên nào khác với
90% nhân lực của Mỹ.
Dulles và Radford trả
lời: Cuộc chiến mà chúng tôi can thiệp có tầm vóc nhỏ hơn tại Triều Tiên vì
quân Pháp và Việt Nam (QG) đảm nhiệm bộ chiến. Các vị đại diện Quốc hội nghi
ngờ khả năng quân Pháp và cho rằng có thể sau khi hải và không quân tham gia,
sẽ có bộ binh (Mỹ tham gia) .
Tám ông dân cử (theo ý
kiến của TNS Johnson) cùng thỏa thuận câu trả lời là phải có nhiều nước tham
dự. Dulles đáp không thể bảo đảm các nước khác tham dự vì chưa có chứng cớ ta
đã can thiệp. Các đại diện Lập pháp nói điều kiện tiên quyết phải có đồng minh
tham gia.
Đại diện Quốc hội đưa
ra những điều kiện chính như (8)
1-Mỹ can thiệp phải
được sự liên minh các nước Đông Nam Á, Phi Luật Tân, Liên Hiệp Anh..
2-Pháp phải trả độc
lập cho Đông Dương
3-Pháp phải ở lại
chiến đấu
Ngày 3-4 đã được báo
The Washington Post số ngày 7-6, ký giả Chalmers Roberts gọi là “Ngày Mà Chúng
Ta Đã không Tham Chiến”, The Day We Didn’t Go to War” (9), nó đánh dấu sự kiện
Quốc hội đã ngăn cản cản Hành pháp can thiệp tại ĐBP.
Dulles hứa hẹn sẽ thảo
luận và kêu gọi các nước Phi Luật Tân, Úc, Tân Tây Lan, Thái Lan tham dự. Buổi
họp kết thúc sau hơn hai tiếng đồng hồ
Tác giả Ted Morgan
(10) cũng nói về ngày 3-4-1954, Phiên họp lúc 9 giờ 30 sáng tại lầu 5 Bộ ngoại
giao phía Hành pháp gồm Dulles, Radford, Smith, Rogers Keys, Bộ trưởng hải quân
Robert Anderson, phía Lập pháp gồm tám vị dân cử, (ba Cộng hòa, năm Dân chủ).
Đô đốc Radford thuyết
trình về chiến tranh Đông dương, Điện Biên Phủ đang nguy kịch, Dulles nói Đông
dương là thìa khóa của Đông Nam Á, mất Đông Dương chúng ta sẽ phải phòng thủ ở
Hawaii. Ông đề nghị Quốc hội yểm trợ Tổng thống xử dụng hải, không quân tại khu
vực để bảo vệ quyền lợi của Mỹ. Thượng nghị sĩ Knowland đồng ý nhưng bị bẩy ông
kia chống, họ đòi phải có đồng minh, không muốn Mỹ phải chịu 90% nhân lực như
Triều Tiên (họ theo ý kiến của TNS Johnson nêu ra trước)
Ngày 4-4 Tổng thống
Eisenhower mở phiên họp lúc 8 giờ 20 tối cùng các cố vấn của ông như Radford,
Dulles, Smith, Kyes. Sau khi nói điều kiện của Quốc hội, TT cho biết Anh, Úc,
Tân Tây Lan .. phải đóng góp quân, Pháp sớm trả độc lập cho Đông Dương và đồng
ý ở lại chiến đấu cho tới khi chiến tranh chấm dứt. Tổng thống nói rõ là Mỹ sẽ
không đơn phương can thiệp.
Ngày 5-4 chính phủ
Pháp chính thức yêu cầu Hoa Kỳ can thiệp cứu ĐBP bằng không lực. Những ngày
tiếp theo, chính phủ Mỹ đã kiên nhẫn vận động với người Anh để lập liên
minh ngõ hầu thỏa mãn yêu cầu của Quốc hội để được họ ủng hộ cho oanh tạc cứu
nguy.
Cùng ngày Tổng thống
Eisenhower viết một thư dài cho Thủ tướng Anh Churchill nói ý niệm về thực hiện
một liên minh quân sự. Người Anh chống lại bất cứ hành động nào có thể phương
hại Hội nghị Genève sắp nhóm họp (26-4). Ba ngày sau Churchill trả lời
thư, ông nói sẽ bàn với Dulles tại London
ngày 12-4.
Dư luận chính trị Quốc
hội Anh chống chính phủ liên minh với Mỹ can thiệp vào Đông dương sợ leo thang
đưa tới Thế chiến thứ ba. Tại cuộc họp nội các ngày 7-4 Churchill đọc thư
Eisenhower nói đánh mạnh sẽ khiến Trung cộng sợ không dám giúp VM, Tây phương
chỉ có hai lựa chọn: rút lui nhục nhã hay thách đố Trung cộng.
Ngày 10-4 ngoại trưởng
Dulles đi Âu châu bàn việc lập Liên minh các nước theo yêu cầu Quốc hội, Bộ
ngoại giao Mỹ vô cùng vất vả để thuyết phục chính phủ Anh tham gia cuộc chiến.
Tháng 4-1954 Dulles đã đi hàng trăm ngàn dặm để tới các nước không CS tại Á
châu, Âu châu, Phi châu, Nam Mỹ… trung bình 200 dặm một ngày rồi về họp với
Tổng thống để sớm cứu nguy ĐBP.
Ngày 11-4 Dulles họp
với Eden tại
tòa Đại sứ Mỹ Luân Đôn nói về liên minh, chính phủ Anh không thể đồng thuận
trước khi có Hội nghị Genève. Sáng hôm sau, Eden từ chối mọi tham gia kể cả gửi
phi công sang Đông Dương. Thông cáo sau cùng ngày 13-4 trống không, ý nghĩa
không rõ rệt “Chúng tôi sẵn sàng tham gia với những nước chính yếu khác đã quan
tâm”. Ngày 16-4 Dulles trở lại Hoa Thịnh Đốn, ông triệu tập phiên họp các nước
để lập Liên minh quân sự Úc, Anh, Pháp, Tân Tây Lan, Phi Luật Tân và Việt, Mên,
Lào. Ngày 20-4 Đại sứ Anh Makins nhận nhận được thư của Eden không cho dự phiên họp.
Dulles ở Paris ngày 23-4, Hội nghị
Genève bắt đầu ngày 26-4, Pháp chỉ hy vọng vào ngưng bắn, họ năn nỉ Dulles thực
hiện chiến dịch “Kên Kên” oanh tạc cứu ĐBP. Tổng thống Eisenhower cho Dulles
biết sẽ không có oanh tạc quanh ĐBP nếu không thỏa mãn yêu cầu của Quốc hội,
không quân Mỹ chỉ hành động trong khuôn khổ lực lượng đồng minh sau khi họ bàn
luận và biểu quyết.
Sáng 23-4 Ngoại trưởng
Pháp Bidault đưa cho Dulles thư của Navarre mới gửi, ĐBP sắp sụp đổ,
hàng thả dù tiếp tế tiếp tục rơi sang địa phận VM. Sau khi ĐBP mất Tướng Giáp
có thể sẽ đưa quân về châu thổ sông Hồng tấn công Hà Nội trước mùa mưa. Bidault
nói Ba Lê không còn con đường nào khác là tìm đình chiến càng sớm càng
tốt, muốn ngăn chận tai họa đó chỉ còn cách cho oanh tạc ồ ạt, nước Mỹ có thể
xét lại kế hoạch Kên Kên được không?
Suốt đêm 24 Dulles gửi
điện cho Eisenhower về yêu cầu của của Bidault trước tình hình bi đát của ĐBP,
Thứ trưởng ngoại giao Smith báo cáo Tổng thống tình hình Ba Lê, VN thay đổi
nhanh từng ngày, bi đát. Eisenhower chỉ thị Radford từ Ba Lê qua Luân Đôn để
yêu cầu Anh tham gia đồng thời ông nói Dulles cho Thủ tướng Pháp Laniel biết
thông điệp của TT Mỹ thúc dục Pháp ở lại chiến đấu đừng tìm hòa bình,
tuần cuối của tháng 4 có thể có oanh tạc can thiệp. Dulles qua thảo luận với Eden tại tòa Đại sứ Mỹ ở
Ba Lê thúc dục Anh tham gia Liên Hiệp. Eden
không tin oanh tạc có hiệu quả và lo ngại chiến tranh lớn, ông không tin Domino
và nói sẽ bị chống đối mạnh trong nước
Sáng hôm sau tại Luân
Đôn nội các chính phủ và Tổng tham mưu trưởng cũng được mời cho biết dù ĐBP sụp
đổ cũng không ảnh hưởng vị trí Anh ở Mã lai, thuyết Domino không đúng.
Thứ trưởng ngoại giao
Mỹ Smith đề nghị qua Đại sứ Pháp nếu Ba Lê thuyết phục được Anh chịu vào Liên
minh chống CS tại ĐNÁ và Thủ tướng Pháp đồng ý trao quyền chiến lược cho Mỹ tại
Đông dương thì Chính phủ Mỹ sẽ tìm sự ủng hộ của Quốc hội để oanh tạc trong vài
ngày hoặc ngày 27-4. Ngày 24-4 Eden tới Paris
họp về NATO, đô đốc Radford thuyết phục ông chỉ cần ủng hộ tượng trưng. Eden vẫn cứng rắn.
Ngày chủ nhật 25-4, Eden
về Luân Đôn dự phiên họp nội các giải quyết một lần cho xong.
Tất cả nỗ lực để cứu
ĐBP sụp đổ cuối tuần này, ngày 24-4 Dulles ở tòa Đại sứ Mỹ tại Paris gửi công hàm cho Bidault nói Mỹ chỉ
oanh tạc nếu được sự thỏa thuận của Quốc hội. Còn một nỗ lực cuối cùng, Pháp cử
người gặp Thủ tướng Churchill để thuyết phục ông tại Luân Đôn ngày 27-4,
Churchill tiếp Đại sứ Pháp René Massigli, ông vẫn cứng rắn từ chối và nói
“Tôi đã chịu mất
Singapore, Hong Kong, Tobruk (Thế chiến thứ hai), người Pháp sẽ phải chịu thua
tại ĐBP”
Màn bi kịch cuối cùng
là cuộc họp của Tổng Thống Eisenhower, Đô đốc Radford, một số viên chức
cao cấp ngày 29-4 tại Hoa Thịnh Đốn, họ duyệt lại toàn bộ tình hình một lần
nữa. Giới quân sự chỉ có Đô đốc Radford vẫn ủng hộ hoàn toàn dù là can thiệp
đơn phương (không cần Quốc hội) của Mỹ để cứu ĐBP. Tư lệnh Hải quân, Đô đốc
Carney và Tướng Twining, TMT không quân không nhiệt tâm với kế hoạch này. Tướng
Ridway, TMT quân đội Mỹ chống đối hoàn toàn kế hoạch, cuối cùng TT Eisenhower
quyết định không giúp Pháp. ĐBP thất thủ ngày 7-5-1954.
Chính phủ Mỹ có thể
đơn phương can thiệp vào Đông dương, oanh tạc ĐBP mà không cần đưa ra Quốc hội
nhưng tình hình năm1954 người dân không muốn Mỹ vừa ra khỏi cuộc chiến Triều
Tiên nay lại tham dự một mặt trận khác. Eisenhower không dám tự quyết định mà
muốn Quốc hội chia xẻ một phần trách nhiệm với Hành pháp.
Quốc hội đòi hỏi lập
liên minh quân sự, trong đó phải có Anh đã khiến Hành pháp bị bó tay không thể
cứu ĐBP được, yêu cầu Tổng Thống phải lập liên minh là ý kiến của Thượng nghị
sĩ Lyndon Johnson (Texas) nên người ta coi như ông đóng vai chính trong việc
ngăn cản chiến dịch cứu nguy bằng oanh tạc.
Hậu quả của Việc Hoa
Kỳ không thực hiện được kế hoạch Kên Kên đã ám ảnh theo đuổi chính phủ
Eisenhower một cách kỳ lạ ngay cả sau khi ngoại trưởng Dulles qua đời năm 1959
(11). Người Mỹ hối tiếc đã không thực hiện chiến dịch Kên Kên để cho Việt Minh,
phía CS thắng lớn thay đổi cả một khúc quành lịch sử.
Trong phần kết luận
cuốn ĐBP Bernard Fall cho rằng người Mỹ tránh can thiệp vào Đông Dương năm 1954
mà sau này họ phải can thiệp (1964, 1965..). Nếu ĐBP không bị thất thủ năm 1954
có lẽ lịch sử VN sẽ ít phức tạp hơn (12) và gần đây hai nhà sử gia Logevall,
Ted Morgan cũng đồng quan điểm trong hai cuốn sách lớn viết về ĐBP và cuộc
chiến Đông dương lần thứ I
Hai tháng sau buổi họp
ngày 3-4 tại Bộ ngoại giao Mỹ giữa đại diện Hành pháp và Quốc hội, vào ngày 7-6
(1954) ký giả Chalmers Roberts (được dân biểu John Mc Cormack tiết lộ) đã viết
trên tờ Washington Post bài “The Day We Didin’t Go To War” Ngày Mà Chúng Ta
Không Tham Chiến. Ngày 3-4 đã phá hỏng mọi nỗ lực can thiệp của người Mỹ
Nhà sử gia Bernard
Fall nói
“Có lẽ ngày 3-4-1954,
Johnson đã làm một quyết định then chốt đầu tiên của ông về VN mà chính ông
không biết”(13)
Ý kiến của Thượng nghị
sĩ Johnson (đòi phải lập liên minh) được bẩy vị dân cử khác nghe theo, người ta
coi như ông là người đã ngăn cản Hành pháp thực hiện chiến dịch Kên kên cứu
nguy ĐBP.
Chiến tranh Việt Nam thập niên 60
Năm năm sau, Johnson
thất bại trong cuộc tranh cử sơ bộ đảng Dân chủ trong kỳ bầu cử Tổng thống
1960, ông được John F. Kennedy mời đứng phó Tổng thống, Dân chủ thắng cử,
Johnson tuyên thệ nhậm chức Phó Tổng thống ngày 20 tháng giêng 1960. Gần ba năm
sau, ông lên thay Kennedy bị ám sát ngày 22-11-1963 và sau đó thắng cử nhiệm kỳ
1964-1968 vẻ vang với 486 phiếu cử tri đoàn so với 52 phiếu của
Goldwater, 61% số phiếu phổ thông và thành Tổng thống thứ 36 của Hoa Kỳ.
Năm 1964 lợi dụng tình
hình chính trị miền nam bất ổn, CS Hà Nội gia tăng xâm nhập cán binh để chiếm
miền nam Việt Nam .
Từ 1966 Bernard Fall và gần đây Logevall, Ted Morgan đã nhận định Hoa Kỳ tránh
can thiệp vào miền bắc VN 1954 để tiêu diệt Việt Minh tại ĐBP, nay phải đương
đầu với cuộc chiến lớn hơn bắt đầu từ giữa thập niên 60. Như đã nói trên, ý
kiến của Johnson trong phiên họp đã ngăn cản TT Eisenhower can thiệp vào VN năm
1954 và bây giờ 10 năm sau một sự tình cờ lịch sử ông trở thành Tổng Thống lại
gánh chịu hậu quả của sự sai lầm của chính ông từ hồi 1954.
Hà nội ngày càng gia
tăng áp lực, chiến tranh ngày càng mở rộng
Ngày 1-1-1964 VC pháo
kích phi trường Biên hòa, phá hủy 6 máy bay B-57, làm hư hại 20 cái khác ,
giết 5 người Mỹ, 2 VN, 76 bị thương (14). Từ 1959 cho tới 1962 có
100 cố vấn Mỹ bị giết, tới cuối 1964, tổng cộng có 416 người Mỹ bị giết chưa kể
số người bị thương và bị bắt làm tù binh (15)
Nhân vụ tầu Maddox bị
hải quân BV tấn công đầu tháng 8-1964 tại vịnh Bắc Bộ, Johnson đưa ra Thượng
viện xin ủng hộ can thiệp vào miền nam VN, ngày 6-8, hôm sau, lưỡng viện bỏ
phiếu bầu ngày 7-8. Thượng Viện thông qua Nghị quyết Vịnh Bắc Việt Tonkin Gulf
Resolution với tỷ lệ 88-2, Hạ viện bỏ phiếu thuận hoàn toàn 416-0, tỷ lệ chung
là 99.60%.
Tổng thống có thể đơn
phương can thiệp mà không cần đưa Quốc hội nhưng Johnson muốn danh chính ngôn
thuận.
Mặc dù an ninh miền
nam VN ngày càng xấu nhưng Johnson còn do dự, e ngại can cuộc chiến sẽ làm hỏng
nhiệm kỳ và chương trình phúc lợi xã hội của ông như, medicaire, medicaid, nhân
quyền, giúp người nghèo…(16)
Tháng 2-1965 qua thăm dò
của Harris poll, 78% người dân ủng hộ cuộc chiến chống CS tại Đông Nam Á, lưỡng
viện Quốc hội ủng hộ Chính phủ, thuyết Domino được tin tưởng mạnh
Đầu tháng 3-1965, sau
khi đắc cử Tổng thống, Johnson mở chiến dịch Rolling Thunder cho oanh tạc giới
hạn Bắc Việt ngăn chận xâm nhập và vận chuyển tiếp liệu vào miền nam để
khiến Hà Nội phải từ bỏ cuộc chiến, ngồi vào bản hội nghị. Cuộc oanh tạc
không có kết quả nên Johnson và các cố vấn phải thay đổi kế hoạch bằng đưa thêm
quân vào miền nam để có thể thắng bằng cuộc chiến dưới đất (17). Trong khi ấy
tình hình quân sự miền nam rất bi đát, trung bình mỗi tuần mất một quận và một
tiểu đoàn, VNCH có thể mất trong vòng 6 tháng. Giữa tháng 4-1965 Johnson đề
nghị gửi một trung đoàn tới bảo vệ phi trường Biên Hòa
Bộ trưởng quốc phòng
McNamara nói (18) sáu tháng (28-1 tới 28- 7-1965) là giai đoạn quyết liệt trong
30 năm can thiệp, Tổng thống Johnson đã có một lựa chọn định mệnh đưa Hoa Kỳ đi
vào con đường can thiệp vào VN ồ ạt về quân sự. Cuối cùng nó đã hủy hoại nhiệm
kỳ của ông và phân hóa nước Mỹ chưa từng có từ thời Nội chiến. Trong giai đoạn
định mệnh này Johnson đã oanh tạc Bắc Việt và đưa quân vào VNCH từ 23,000 ngươi
(1964) lên 185,000 (1965) , 385,000 (1966) 485,000 (1967) 530,000 (1968) . Việc
tiến hành không đưa ra bàn thảo trước công luận, gieo niềm bất tín mãi mãi.
Chịu trách nhiệm lãnh
đạo cuộc chiến là McNamara, một người dân sự, ông còn được gọi là Kiến trúc sư
của chiến tranh VN. Xung đột tại VN được gọi là McNamara’s war, Cuộc
chiến của McNamara. TT Johnson tin tưởng kính nể McNamara và hy vọng thành công
(19), đây là một lỗi lầm tai hại của Johnson khi giao sinh mạng Đông Dương vào
tay một chiến lược gia bất tài.
Johnson-McNamara áp
dụng chiến tranh giới hạn (limited war) một chủ thuyết hình thành khi thời đại
nguyên tử bắt đầu, chủ trương tránh một cuộc chiến nguyên tử với Nga (20). Mỹ
phải ngăn chận CS bành trướng đang lan ra trong thế giới thứ ba bằng: trợ
giúp kinh tế, quân sự, ngoại giao khéo léo và hạn chế tránh dụng chạm Nga,
Trung Cộng. Lần đầu tiên áp dụng chiến tranh giới hạn tại Triều Tiên và đã đưa
tới đụng chạm giữa Tổng thống Truman và Tướng MacArthur
Cuộc chiến của
Johnson-McNamara có hai mặt trận, trước hết là tại miền nam và cuộc oanh tạc
miền Bắc. Tháng 8-1965, Bộ TMLQ đề ra bốn mục tiêu 1- Giúp VNCH kiểm soát dưới
vĩ tuyến 17. 2- Đánh bại VC và CSBV. 3-Buộc Hà nội phải rút. 4- Ngăn chận Trung
Cộng bành trướng
Chiến tranh VN của
Johnson cũng áp dụng chiến lược hao mòn như truyền thống Mỹ do Bộ TMLQ, TMT lục
quân tướng Harold Johnson, McNamara soạn, TT chấp thuận.
Chiến lược của
Westmoreland gồm ba giai đoạn, có kết quả tốt cuối 1967: Giai đoạn 1-
Quân Mỹ bảo vệ căn cứ, phi trường, giữa 1965, tình hình nguy khốn, VC tấn công
chiếm một nửa đất đai và dân số, mỗi tuần VNCH mất một tiểu đoàn (21). Giai
đoạn hai bắt đầu 1966 cho tới cuối năm, Mỹ phản công chiếm các căn cứ địch, mật
khu, lùng diệt địch. Giai đoạn ba bắt đầu 1967, càn quét địch, đẩy chúng ra xa,
tiến hành bình định. Chiến lược đánh hao mòn của Mỹ 1967 đã đạt mục tiêu, đẩy
VC qua bên kia biên giới. Những vùng đông dân do địch kiểm soát giảm dần, Mỹ
ước lượng cuối 1967 có 180,000 quân BV và VC bị giết, chúng bớt xâm nhập nhưng
gia tăng tuyển quân. Mặc dù Westmoreland mở chiến dịch lớn cuối 1967 cuộc
chiến vẫn là những đụng độ nhỏ, địch chỉ đánh khi lợi thế, Mỹ mạnh nhưng không
tiêu diệt được chúng.
Song song với cuộc
chiến tại miền nam VN, không quân, hải quân Mỹ và VNCH bắt đầu oanh tạc
BV, chiến dịch Rolling Thunder, Sấm Rền từ tháng 3-1965, mới đầu rất hạn chế,
phần nhiều dưới vĩ tuyến 20 để ngăn chận xâm nhập. Chính sách leo thang oanh
tạc không ngăn chận được xâm nhập cũng như không đưa Hà Nội vào bàn đàm phán.
TMT liên quânTướng Wheeler đề nghị TT Johnson tăng cường oanh tạc, Johnson cho
tăng phi vụ nhưng không cho phá hủy hết bộ máy chiến tranh của BV. Cuối 1965
chiến dịch thất bại dù đã tăng nhiều phi vụ (22), mục tiêu gồm căn cứ quân sự,
giao thông, hậu cần.. nhưng địch vẫn xâm nhập nhiều.
Cuối tháng 6-1966 phi
cơ Mỹ từ vịnh BV, Thái Lan oanh tạc các kho dầu Hà Nội, Hải Phòng, khoảng 60%
nhiên liệu BV bị phá hủy, Mỹ mất một máy bay, dân Mỹ ủng hộ TT Johnson tỷ lệ
tăng từ 42 tới 54%.
Những tháng cuối 1966
Mỹ tăng quân hơn 2 lần, McNamara thăm VN
sau 12 tháng, mặc dù
VNCH không bị đánh bại nhưng không có tiến bộ càn quét địch ra khỏi miền nam.
Tuy oanh tạc gây thiệt hại nhưng địch không làm giảm tiếp tế của BV cho miền
nam, theo ông CS dùng chiến lược làm hao mòn tinh thần của Hoa Kỳ (23). Cuối
1966 Tướng Westmoreland cho biết lực lượng địch nay là 300,575 tên, năm 1966 đã
tăng 42,000 dù bị thiệt hại, xâm nhập 8,400 người một tháng và tuyển quân ở
miền nam 3,500 (24)
Tháng 7, 8 Mỹ oanh tạc
các kho dầu ngay trung tâm BV, chiến dịch chấm dứt 4-9-1966, 75% dầu ở Hà Nội
bị phá, trận này Mỹ mất hơn 70 máy bay, sau đó Nga Trung Cộng lại cung cấp đủ
cho BV. McNamara thất vọng, oanh tạc tốn kém mà không có kết quả, các cố vấn
dân sự đề nghị lập một hàng rào điện tử dưới vĩ tuyên 17. Mùa xuân 1967,
Johnson cho ngưng oanh tạc nhưng BV vẫn không chịu đàm phán, Johnson cho leo
thang và đi vào giai đoạn ba của Rolling Thunder quan trọng và gay cấn nhất:
Oanh tạc nhà máy điện, nhà máy thép, thả mìn các hải cảng, cửa sông, các mục
tiêu gần biên giới Tầu, người dân ủng hộ oanh tạc kinh tế, kỹ nghệ cho tới cuối
1967, Chính phủ cho oanh tạc kỹ nghệ chiến tranh, kho săng, giao thông…
Johnson cho rằng oanh
tạc mạnh và chiến dịch tại miền nam sẽ khiến BV phải vào bàn hội nghị, giai
đoạn ba sẽ kéo dài tới tháng 4-1968 nhưng sẩy ra trận Mậu Thân từ đầu
tháng 2 nên ông thôi oanh tạc. Trận Mậu thân cho thấy oanh tạc thất bại không
ngăn chận được địch xâm nhập dù đã leo thang. Chiến dịch Rolling Thunder từ
1965 tới 1968 đã ném 643,000 tấn bom và gây thiệt hại trị giá 600 triệu cho BV,
gây tàn phá cho kỹ nghệ và nông nghiệp BV. Việc cung cấp lương thực bị phá hủy,
họ phải dựa vào viện trợ của Nga và Trung cộng, có khoảng 50,000 người dân bị
thiệt mạng (25). Chiến dịch oanh tạc coi như thất bại, địch vẫn gia tăng xâm
nhập người và tiếp liệu. Giới quân sự cho rằng nguyên do thất bại vì các cố vấn
dân sự hạn chế và vì VC, BV có nhu cầu ít, chúng thừa khả năng tự cung cấp,
Nga, Trung Cộng tiếp tục đổ hàng vào BV.
Chiến dịch rất tốn
kém, trước khi ngưng ném bom 31-3-1968 Mỹ thiệt hại 950 máy bay trị giá 6 tỷ,
năm 1966 Mỹ mất 9 đồng rưỡi để gây thiệt hại cho BV một đồng, phi công bị bắt
làm con tin, người dân dần dần chống oanh tạc vì tốn kém, vô ích, sai lầm. Oanh
tạc ở miền nam lớn, dài hơn, nhiều mục tiêu hơn để phá hậu cần, kho đạn, kho
hàng địch. B-52 cũng tham dự từ Guam cách 2,800 dặm, độ cao từ 30,000 tới
36,000 bộ (khoảng 10 cây số), mỗi cái mang từ 18-27 tấn bom, có thể trải thảm,
một vũ khí ghê sợ nhất. Từ 1965 tới 1967, oanh tạc đường mòn Hồ Chí Minh bên
Lào tổng cộng 3,000 phi vụ một tháng coi như thất bại. Đường mòn HCM là
một mạng lưới rộng, trên cao không nhìn thấy, phi công Mỹ chỉ ngăn chận một
phần xâm nhập người và vũ khí vào Nam (26)
Sau trận Mậu thân
1968, người dân Mỹ quá thất vọng, năm ngoái1967 báo cáo của Tướng Westmoreland,
Đại sứ Bunker lạc quan về tình hình miền nam dần dần ổn định, địch đã bị
càn quét thế mà Cộng quân đã mở được cuộc tổng tấn công qui mô lớn hàng trăm
ngàn người. Phong trào phản chiến lên cao, tỷ lệ ủng hộ cuộc chiến giảm xuống
còn dưới 40% (27).
Cuối tháng 3, TT
Johnson tuyên bố không ra tranh cử, các kiến trúc sư của cuộc chiến như
McNamara, Tướng Westmoreland, Tướng Harold Johnson.. .đều đã ra đi, chiến thắng
quân sự chỉ là ảo tưởng, Cộng quân vẫn tăng quân số dù bị thiết hại nặng nề.
Nói về những lý do đưa
tới thất bại, các nhà học giả, sử gia về chiến tranh VN đã đưa ra nhiều nhận
xét chỉ trích những sai lầm của Johnson
TT Nixon nói:
“Khi một ông TT đưa
quân Mỹ đi tham chiến, một cái đồng hồ vô hình bắt đầu chạy. Ông có một khoảng
thời gian nhất định để thắng cuộc chiến trước khi người dân chán nản. Tháng 2
năm 1968, TT Johnson đã hết thời hạn của mình” (28).
Tác giả George Moss
nói (29) khi Johnson quyết định leo thang chiến tranh ông không ngờ đã đưa Mỹ
vào một cuộc chiến dài, đắt giá, thất bại. Một trong những lý do thất bại là
quan niệm chiến tranh giới hạn và cách áp dụng vào Đông Dương. Cuộc chiến gây
tranh chấp giữa các cố vấn dân sự và quân sự của Johnson đưa tới sự lãnh đạo
cuộc chiên mơ hồ. Các nhà chính khách không có chiên lược, một trong các lý do
lớn thất bại là không muốn động viên nhân lực, kinh tế cho mục tiêu, đây là một
cuộc chiến giới hạn chỉ dùng giới hạn tài nguyên. Một nguyên nhân thất bại khác
là chiến lược quân sự ở VN mâu thuẫn: một đằng Johnson giới hạn hoạt động quân
đội Mỹ tại VN để tránh đụng chạm với Nga, Trung Cộng sợ họ can thiệp, một đằng
lại muốn đánh thắng CS nhanh gọn, dùng giới hạn hỏa lực Mỹ để tránh chiến tranh
với Nga, Trung Cộng.
Vả lại Johnson khinh
địch, ông không thực hiện sớm mục tiêu, bị trói buộc vì chiến tranh giới hạn để
rồi bị trong nước chống đối. Johnson không khai triển các phương
tiện đánh địch cứu miền nam VN trước khi có phản chiến. Khi Mỹ phải bỏ oanh
tạc, rút quân vì bị chống đối như tốn kém, chết người, Mỹ cắt giảm viện trợ
miền nam sụp đổ (1975). Vì theo thể thức chiến tranh giới hạn, giao cho giới
chức dân sự, các Tướng lãnh tức giận cho rằng việc hạn chế mục tiêu của các
viên chức dân sự khiến oanh tạc không có kết quả để ngăn chận xâm nhập. Các
Tướng áp lực Johnson cho oanh tạc mạnh nhưng ông sợ Trung Cộng can thiệp như
tại Triều Tiên và từ chối. Năm 1967 Johnson cho oanh tạc mạnh hơn, mặt trận tại
miền nam giao cho Bộ TM liên quân hoạch định. Westmoreland không đủ quân và
tiếp liệu và không được đánh qua biên giới, các nhà lãnh đạo quân sự cũng gặp
hạn chế về cuộc chiến dưới đất
Theo George Moss chiến
lược đánh hao mòn lực lượng địch là truyền thống Mỹ nhưng lý thuyết này áp dụng
cho chiền tranh qui ước châu Âu, Cao Ly, còn ở VN chúng đánh không qui ước. Lý
do thất bại của Mỹ là dựa trên chiến tranh qui ước với kẻ địch đánh du kích,
chúng tránh được thất bại
Tổng thống không gọi
quân trừ bị và vệ binh quốc gia (vì lý do chính trị)
Mà chỉ dựa vào quân
dịch tạo cho việc leo thang của Westmoreland gặp khó khăn. Quân đội thiếu công
binh, tiếp liệu để hành quân, nhiều đơn vị thiếu đạn không đủ mạnh, từ giữa tới
cuối 1965 Westmoreland phải ngưng chiến dịch vì thiêu tiếp liệu.
Ngoài ra chiến tranh
hạn chế của Johnson-Mcnamara không cho đánh qua biên giới đã bó tay
Westmoreland. VC rút khỏi mật khu vì bị Mỹ, VNCH chiếm, chúng lập căn cứ bên
kia biên giới nghỉ dưỡng quân, tái trang bị cho mạnh rồi sẽ đánh Mỹ, VNCH, các
Tướng Mỹ vận động để đánh qua biên giới mà không được
Địch khai thác căn cứ
bất khả xâm phạm bên kia Lào, Mên, mặc dù thiệt hại nặng hơn các nước bại trận
Thế kỷ 20 nhưng BV, VC vẫn tiếp tục cuộc chiến. Mỹ phải tăng quân, thiệt hại
tăng đưa tới phản chiến, dù gây thiệt hại nặng cho địch nhưng chúng vẫn
tồn tại, gia tăng thêm. Vì Mỹ và VNCH không đủ quân để bình định, đánh xong
phải rút, địch lại trở về. McNamara thất vọng ở Rolling Thunder, tốn kém mà
không có hiệu quả. Các cố vấn dân sự (McNamara và các phụ tá của ông) đề nghị lập
hàng rào điện tử dưới vĩ tuyến 17, gồm kẽm gai, mìn. Thực hiện từ đầu 1967 gọi
là hàng rào điện tử McNamara từ bờ biển đông cho tới biên giới Lào, cho
cuối tháng 9-1968 mới ngưng, tốn một tỷ rưởi đô la và 740 triệu tiền điều hành
một năm. Đó là một sai lầm lớn của Johnson vì quá tốn kém mà không ngăn được
địch, chúng đi vòng qua phía Lào.
Tướng Wheeler nói lãnh
đạo CSVN hy vọng thắng cuộc chiến tại tại Washington
cũng như họ đã thắng Pháp tại Paris
(30)
Đô đốc Sharp cho biết
cần oanh tạc mạnh, oanh tạc hải cảng cuối 1966 sẽ thắng địch, nhưng tác giả
Larry Berman nói mục đích Johnson-McNamara không phải chiến thắng quân sự
như quan niệm cổ điển mà theo một chiều hướng khác. Họ không chấp nhận quan
điểm thắng cuộc chiến mà là xây dựng dân chủ miền nam, không phá hủy miền bắc
vì Trung Cộng có thể can thiệp vào. Mục đích của oanh tạc BV là để 1-yểm
trợ quân Mỹ đánh phá các căn cứ hậu cần, 2-trừng phạt BV, 3-giảm xâm nhập hoặc
gây thiệt hại địch . Cuối năm 1966 Johnson không tin vào oanh tạc BV cũng
như cuộc chiến bình dịnh miền nam đã không đưa đưa BV tới hòa đàm, theo
Westmoreland lực lượng địch đầu năm 1966 khoảng 300,000 người.
Cuộc chiến của Johnson
đi vào bế tắc, không đạt mong muốn, GS Larry Berman chỉ trích Johnson, mặc dù
bế tắc nhưng Johnson cũng không chịu bỏ chính sách “không chiến thắng”, no-win
policy của ông. Johnson-McNamara không chủ trương đánh thắng như truyền thống
mà chỉ dọa cho địch thấy sự tai hại để ngồi vào bàn hội nghị, chính sách thất
bại có nghĩa là thắng lợi của địch, chúng đẩy mạnh phong trào phản chiến. Các
Tướng lãnh biết rằng cuộc chiến hạn chế tại VN sẽ thành cuộc chiến lâu dài đưa
tới bế tắc càng có lợi cho BV. Địch chấp nhận kéo dài chiến tranh
để gây chống đối tại Mỹ, bế tắc của Johnson tức là chiến thắng đối với Hà
Nội.
Đầu tháng 4-1967
Westmoreland xin tăng quân, nay Cộng quân có 285,000 người, Mỹ 470,000, dù
không tăng quân Mỹ vẫn không thua nhưng cuộc chiến sẽ kéo dài năm năm, lâu
thắng. Nếu tăng lên 565,000 cuộc chiến sẽ kéo dài thêm ba năm nếu tăng thêm lên
665,000 thì chỉ hai năm thôi. Năm 1967, mặc dù thực hiện Rolling Thunder, tăng
quân lên 425,000 người nhưng không đưa BV tới bàn đàm phán, có tiến bộ nhưng
chiến tranh không chấm dứt. Phe quân sự đề nghị phong tỏa Hải Phòng nhưng không
được chấp nhận, Johnson sợ sẽ lôi kéo Trung Cộng sẽ can thiệp.
Bộ TM liên quân trình
Johnson đề nghị oanh tạc phi trường, hải cảng đường giao thông, kêu lính trừ
bị. Họ chỉ trích giới lãnh đạo dân sự Bộ quốc phòng (McNamara và phụ tá Mc
Naughton…) dùng chiến tranh giới hạn đã ngăn cản sức mạnh của quân lực
Mỹ, đưa tới kéo dài chiến tranh. Họ chống chiến tranh giới hạn vì đây là khuyết
điểm chính của chiến dịch, trong khi hải cảng BV vẫn hoạt động tiếp nhận hàng
quân sự, đất Miên thành hậu cứ cho quân địch.
McNamara chống leo
thang của Bộ TM liên quân, ông cho là sẽ đưa Nga, Trung Cộng vào cuộc chiến
lớn, tỷ lệ thương vong sẽ khiến dân chống đối. Ông ta cho rằng giới hạn được
đặt ra vì người dân Mỹ và Thế giới không cho phép ta vượt qua, ông cảnh báo
Johnson oanh tạc bị thê giới lên án.
Johnson tin các cố vấn
dân sự không tin các Tướng lãnh, đó là điều mâu thuẫn trong khi giải quyết cuộc
chiến, ông không chấp nhận đề nghị các Tướng muốn gia tăng oanh tạc BV. Tháng
8-1967 McNamara điều trần trước Tiểu ban quân sự Thượng viện của TNS John Stennis
về oanh tạc BV, ông không tin tưởng Rolling Thunder. Tiểu ban gồm nhiều diều
hâu cho rằng giới quân sự bị giới dân sự dìm, McNamara hòa dịu với CS. Họ kết
án các cố vấn dân sự điều khiển cuộc chiến bác bỏ ý kiên các Tướng lãnh, nay
cần phải dùng sức mạnh giải quyết cuộc chiến. Tiểu ban kết án dân sự điều khiển
cuộc oanh tạc nên chiến dịch không đạt mục tiêu, lý thuyết tiệm tiến, (gia tăng
oanh tạc từ từ) đã ngăn cản Rolling Thunder đạt kết quả tốt. McNamara là kẻ
thừa hành của Johnson, trách nhiệm thuộc về Johnson.
Ngày 1-11-1967
McNamara trình Tổng thống văn thư xác nhận sự thất bại của Mỹ tại VN, dù tiếp
tục tới cuối 1968 cũng sẽ không thành công, người dân tiếp tục chống đối, tiến
bộ cuộc chiến chậm, oanh tạc không ngăn được xâm nhập. Oanh tạc chỉ là lá bài
cho đàm phán mà ta phải bỏ, nó không làm BV nản chí. Ông ta đề nghị ngưng ném
bom BV và cảnh báo cuộc chiến bế tắc dù tăng quân cũng không đánh tan địch,
không hy vọng gì ở 15 tháng sau (cuối nhiệm kỳ 1968)
Ngay tối hôm McNamara
trình văn thư Johnson họp các vị cựu, tân viên chức gọi là wise men để
hỏi ý kiến, trong đó nhiều vị từ Thế chiến thứ hai, sự kiện cho thấy Johnson
không có lập trường riêng, lẩm cẩm. Cố vấn an ninh George Bundy nói viễn tượng
cuộc chiến kéo dài. Thứ trưởng ngoại giao Katzenbach phát biểu ta không thể
thắng cuộc chiến bằng Rolling Thunder, Hà Nội hy vọng ở sự chán nản, chia rẽ từ
Mỹ. Ông đề nghị Johnson bỏ chiến tranh hạn chế để đánh gục kẻ địch vì tiến bộ
cuộc chiến thì chậm mà chia rẽ tại Mỹ lại quá nhanh.
Larry Berman nói ngày
29-11-1967, sau bẩy năm làm Bộ trưởng quốc phòng, McNamara cho biết ông nhận
làm giám đốc Ngân hàng Thế giới (sẽ ra đi). Thăm dò ý kiến người dân cho
thấy 45% chê và 42% khen khả năng lãnh đạo Bộ quốc phòng của ông trong khi
Westmoreland được 68% khen, 12% chê. Bài của Louis trên tờ Harris Washington
Post cho biết người dân không đồng ý về việc để viên chức dân sự nắm Quốc
phòng. Thăm dò Harris 53% chống, 36% ủng hộ, họ nói thời chiến phải để Quân đội
lãnh đạo. Có 73% (so với 10%) dân Mỹ cho rằng khi mà dân sự bảo quân đội làm
thường chỉ là chính trị chứ không phải quân sự, tỷ lệ 65% cho rằng giới
quân sự tại VN đã bị dân sự ngăn trở (so với 10% chống)
Đây là một lỗi lầm tai
hại nhất của Johnson
Ngày 29-2-1968
McNamara rời Bộ quốc phòng, Clark Clifford lên thay, ông được lệnh tăng quân
cho Westmoreland, tân Bộ trưởng nói chúng ta không được đánh dể thắng : 1-Tổng
thống không cho tấn công BV vì có thể lôi kéo Trung Cộng vào; 2- không gài mìn
Hải Phòng sợ đụng làm chìm tầu Nga, 3- không được đánh đuổi VC qua Mên, Lào vì
sẽ mở rộng cuộc chiến. Clifford nói ông không biết bao giờ cuộc chiến mới chấm
dứt, không biết bao nhiêu súng đạn cho đủ. Sau khi bị thiệt hại nặng trong 4
năm địch vẫn không nản chí.(32).
Clifford trình Johnson
xin cấp ngay 22,000 người, 3 phi đội cho Westmoreland và đề nghị gọi 262,000
quân trừ bị. Trong phiên họp ông đã trình Tổng Thống cho dù tăng 206,000 người
chưa chắc đã hoàn thành mục tiêu, cho dù tăng 206,000 sau đó Westmoreland cũng
sẽ xin tăng thêm. Ta muốn đưa thêm bao nhiêu vào thì CSBV cũng sẽ đưa vào, Mỹ
sẽ gặp cái thùng không đáy.
Tác giả Larry Berman
nói Westmoreland xin tăng quân cho thấy chiến lược đánh hao mòn của Mỹ thất
bại, dù đưa vào 3/4 triệu người cũng không có dấu hiệu gì thắng hơn 1965, có
tiến bộ nhưng hòa bình trong danh dự ở VN không thấy.
Tướng Bruce Palmer phụ
tá của Westmoreland coi trận Mậu Thân là một thất bại tình báo ngang hàng Trân
Châu Cảng, chiến tranh lùng diệt địch chỉ áp dụng cho Thế chiến thứ hai không
thể áp dụng tại VN. Ngày 23-3 TT Johnson tuyên bố Tướng Westmoreland làm TMT
lục quân thay thế Tướng Harold Johnson, sự kiện cho thấy Johnson chấp nhận
chiến tranh hao mòn, lùng diệt địch thất bại.
Cuối tháng 3-1968
Johnson tuyên bố không ra tranh cử, McNamara, Tướng Westmoreland, Tướng
Johnson … các kiến trúc sư của cuộc chiến đã ra đi, chiến thắng quân sự chỉ là
ảo tưởng.
Giáo sư Clodfelter nói
(33) giới quân sự cho biết Rolling Thunder thất bại vì bị giới hạn, năm 1966
Tướng Mc Connell nói với Johnson nếu ta bỏ giới hạn thì sẽ có kết quả. Trung tướng
Ginsburgh lý luận thời biểu 94 mục tiêu của Bộ TM liên quân có thể thành công
bất cứ lúc nào trong năm 1965, 1966. Đô đốc Sharp (Tư lệnh Thái Bình Dương) nói
nếu sau Tết Mậu thân mà tấn công mạnh có thể đã thắng. Các Tướng không quân tin
rằng oanh tạc sẽ làm sụp đổ kinh tế BV khiến họ phải chấm dứt chiến tranh. TT
Johnson không muốn oanh tạc khiến BV phải bị khuất phục mà chỉ muốn VNCH
độc lập không CS. Trong khi ngăn CS ông tìm mục đích khác nên đã giới hạn việc
dùng vũ lực, mục đích tiêu cực đã khiến Rolling Thunder bị kiểm soát về chính
trị.
Đô đốc Sharp nhận xét
sử dụng sức mạnh quân sự phải cứng rắn, phũ phàng đạt yêu cầu và không thể làm
rón rén nhẹ nhàng đi lanh quanh. Chính sách giới hạn của Johnson đã khiến giới
Quân sự thất vọng cuối năm 1967, trong buổi thuyết trình về Rolling Thunder
Tướng Mc Connell (TMT Không quân) than phiền: Tôi cảm thấy phát bệnh vì tức.
Hai năm sau ông xin về hưu nhận thư của Tướng Momyer (Tư lệnh không đoàn 7)
nói: tôi tiếc là chúng ta không thắng cuộc chiến, ta có sức mạnh, khôn ngoan,
trí tuệ, nhưng các cố vấn dân sự kìm hãm ta. Sau cuộc chiến này ta rút ra một
một bài học, đừng tham chiến trừ khi ta chuẩn bị tất cả để chiến thắng.
Lời của Momyer giảng
rộng sự đánh giá cuộc chiến Cao Ly của Tướng Mac Arthur, ông này chỉ trích
chiến tranh giới hạn của Tổng Thống Truman. Và nay Rolling Thunder lại đi vào
vết xe đổ của quá khứ. Giới chức quân sự Sharp, Wheeler, Moore đánh giá về oanh tạc cho rằng nếu TT
Johnson giao cho họ quyền hành động thì đã thắng rồi. Tác giả Clodfelter cho là
họ thiếu cơ sở vì bản chất của cuộc chiến cho thấy oanh tạc chỉ là để phục vụ
mục đích chính trị của Johnson.
Như thế chứng tỏ chủ
trương hạn chế quân sự cho mục đích chính trị thất bại, chỉ có quân sự tự do
hành động có thể giaỉ quyết được bế tắc. Tướng Taylor nói ta cần san bằng mọi
thứ trong và xung quanh Hà Nội, oanh tạc mạnh có thể khiến chính quyền trung
ương tan vỡ.
Tác giả Clodfelter nói
không quân thời Johnson cũng bị giới hạn, sự kiểm soát giới hạn làm giảm hiệu
lực quân sự, nó phục vụ chính trị, thiếu kinh nghiệm chiến tranh giới hạn trong
chiến tranh không qui ước cộng với tự mãn đưa tới tin tưởng sai lầm trong
Rolling Thunder. Tin tưởng vào oanh tạc của các cố vấn đã che mờ hình ảnh sự
thuật về cuộc chiến.
Johnson kiểm soát oanh
tạc để tránh đụng trận với Nga và Trung Cộng, ông kiểm soát hỏa lực, mục tiêu,
phi vụ trong buổi ăn trưa ngày thứ ba. Johnson mời các cố vấn thuộc Hội đồng an
ninh quốc gia để bàn các chính sách quân sự. Ông tin tưởng các cố vấn dân sự và
không tin các Tướng lãnh. Có sự chia rẽ giữa cố vấn dân sự và quân sự nên thiếu
chỉ huy thống nhất. Không quân Mỹ đã ném 2 triệu 200 ngàn tấn bom ở miền Nam so
với 643,000 tấn ở miền Bắc. Kiểm soát về quân sự giới hạn hiệu năng của oanh
tạc, đa số các giới chức không quân chủ trương phá hủy khả năng sản xuất của
địch sẽ khiến chúng mất khả năng chiến đấu. Cuối năm 1965 Bộ TM liên quân đề
nghị kế hoạch phá hủy kinh tế BV nhưng không được chấp thuận
Trung úy Eliot Tozer
than phiền trong hồi ký:
“Bực mình vì nhiều
thứ, máy bay (A-4) giới hạn kỹ thuật, thả giới hạn bom, trên một số ít mục
tiêu, trong thời gian giới hạn, chiến đấu trong một cuộc chiến giới hạn”
643,000 tấn bom đã
được thả thời Rolling Thunder tại BV, phá hủy 65% nhiên liệu, 59% nhà máy điện,
55% cầu đường lớn , 9,821 xe cộ, 1,966 toa xe lửa … con số không trung thực
lắm. Ngoài thiệt hại người, máy bay, năm 1965 Mỹ mất 6 đồng 6 để gây thiệt hại
1 đồng cho BV, 9 đồng 6 cho năm sau.
Mặc dù oanh tạc ngăn
cản vận chuyển tiếp liệu nhưng không ngăn được xâm nhập, lý do chính là nhu cầu
tiếp liệu của CS ít, chúng đủ sức cung cấp. Ngoài ra Nga và Trung Cộng tiếp tục
viện trợ thêm cho BV để bù lại chỗ bị mất. Sau trận Mậu Thân 1968, VC bị mất
hết lực lượng nên họ phải chịu thương thuyết, họ vẫn cố kéo dài đàm phán và
đánh quấy phá để người Mỹ chán nản bỏ VN.
Phillip Davidson trong
VN at war (34) nói: Các phụ tá dân sự của McNamara cho biết Rolling Thunder tốn
kém, năm 1965 gây thiệt hại cho BV 70 triệu nhưng Mỹ phải tốn 460 triệu, năm
1966 gây thiệt hại 94 triệu cho BV Mỹ tốn 1 tỷ 247 triệu. Tác giả nói: Dĩ nhiên
một nguyên do lớn của sự không hiệu quả là hệ thống lựa chọn mục tiêu do
McNamara và Johnson chủ tọa.
Sự chia rẽ giữa các cố
vấn dân sự và giới chức quân sự ngày càng sâu xa tại Ngũ Giác Đài: hai phe
không ưa và chẳng phục nhau. Một nhà quan sát tự hỏi không biết những năm 1965,
1966 cuộc chiến thực sự diễn ra trên trời, trong rừng tại VN hay tại Ngũ Giác
Đài?
Davidson nói có lẽ
khuyết điểm chính của McNamara là ông nhận định ra rằng cuộc chiến không thể
thắng được dưới chính sách hạn chế như hiện nay mà một phần lớn do ông chủ
trương hay ủng hộ. McNamara tiếp tục cuộc chiến vì nhiệm vụ nhưng ông ta cho là
một mục đích không thực tế chút nào.
Mặc dù tăng phi vụ
tăng từ 55,000 năm 1965 lên 148,000 năm 1966 và năm 1965 ném 33,000 tấn, năm
1966 tăng lên 148,000 tấn nhưng vẫn không ngăn được xâm nhập. Johnson chấp
thuận cho làm hàng rào ngăn cản. Hàng rào điện tử McNamara được thực hiện từ
đầu năm 1967 cho tới cuối tháng 9-1968 chấm dứt xây dựng, tốn 1 tỷ rưỡi và 740
triệu tiền điều hành một năm, nói chung thất bại.
Phe dân sự cho oanh
tạc quá tốn kém thất bại, phe quân sự cho vì dân sự giới hạn mục tiêu nên thất
bại.
Kết luận
Tháng tư 1954, Johnson
đã đóng vai chính trong việc ngăn cản Hành Pháp can thiệp vào Điện Biên Phủ để rồi
hơn mười năm sau nước Mỹ phải đương đầu với cuộc chiến đẫm máu, tốn kém hơn.
Nay Johnson thừa hưởng hậu quả do chính ông và lại sai lầm trầm trọng thêm một
lần nữa.
Như trên Johnson mâu
thuẫn ở chỗ ông muốn thắng nhanh buộc BV phải đàm phán nhưng ông lại áp dụng
chiến tranh giới hạn. Chính sách giới hạn của Johnson-McNamara kéo dài cuộc đưa
tới chống đối tại mặt trận đất nhà. Một sai lầm lớn nhất của Johnson giao cho McNamara
nhiều quyền lực kiểm soát và hạn chế các Tướng lãnh gây tranh chấp giữa dân sự
và quân sự. Các sử gia, chính khách đều đã đánh giá thấp khả năng McNamara.
Người dân qua thăm dò cũng đã không tin tưởng ông ta nhưng Johnson vẫn cố chấp
giao trọng trách cho McNamara đưa tới thất bại trong chiến dịch oanh tạc cũng
như bình định miền nam.
Vừa mở mặt trận oanh
tạc BV, mặt trận đánh hao mòn địch tại miền nam Johnson cũng tạo ra cuộc chiến
tại Ngũ Giác Đài những năm 1965, 1966, 1967 giữa hai phe dân sự, quân đội. Cuộc
chiến này còn kéo dài cho tới đầu tháng 4-1969 khi nhiệm kỳ Johnson đã hết, cựu
Tư lệnh Thái bình dương Đô đốc Sharp và cựu Tư lệnh Westmoreland công bố bản
phúc trình 347 trang về cuộc chiến VN. Các Tướng nhấn mạnh sự bó tay của Bộ tư
lệnh mỹ trước chính sách hạn chế của Johnson-McNamara và lệnh cấm đánh qua
Miên, Lào. Cuối tháng 4-1969 Đô đốc Sharp đăng báo công kích cựu Bộ trưởng
McNamara không cho oanh tạc tiềm lực kinh tế BV mà chỉ cho ngăn chận xâm nhập
khiến cho các cuộc oanh tạc hóa ra vô hiệu
Chiến lược giới hạn
không cho đánh qua miên, Lào là một khuyết điểm lớn, ông CaoVăn Viên nói (35)
“Gần một phần tư
thế kỷ … CSVN có được sự an toàn ở các căn cứ hậu cần – trong
nội địa hay bên quốc gia lân cận – những căn cứ hậu cần đó là nơi họ dưỡng quân
sau những cuộc đụng độ để chuẩn bị cho những trận đánh mới mà không sợ bị quấy
phá.”
Tháng 3, 4, 5 năm 1969
Nixon cho B-52 oanh tạc các căn cứ CSBV tại biên giới Việt Miên phá hủy nhiều
kho nhiên liệu, đạn dược, địch có 4 sư đoàn đóng tại khoảng 10 căn cứ địa này,
cuộc oanh tạc có kết quả tốt (36). Nixon cho biết
Johnson-McNamara nhiều lần gia tăng oanh tạc và kêu gọi BV đàm phán nhưng thất
bại vì ta không thể mơn trớn ông Hồ và phía CS từ bỏ cuộc chiến mà phải bắt
buộc họ từ bỏ (37). Nixon đánh giá chính phủ tiền nhiệm đã tỏ ra yếu đuối.
Johnson chủ trương
đánh hạn chế để tránh lôi kéo Nga Trung Cộng vào cuộc chiến, nhưng ông đã lôi
kéo cuộc chiến tại đất nhà nhập cuộc, một trận chiến quyết định và khốc liệt
hơn hết, chính nó đã làm sụp đổ mọi nỗ lực của Tòa Bạch Ốc. Johnson đã không
tiên liệu trước bi kịch này mà đáng lý phải Việt Nam hóa chiến tranh từ 1965.
Ngoài ra chính phủ đã quá dễ dãi với truyền thông, cho tự do không kiểm duyệt
tin tức chiến tranh trên TV, báo chí. Các ký giả sang VN quay phim, chụp hình
về nước phổ biến thoải mái thúc đẩy phản chiến lên cao, sau này rút kinh nghiệm
người Mỹ đã kiểm duyệt tin tức từ các chiến trường Iraq ,
Afghanistan .
Tháng 4 năm 1954, ý
kiến sai lầm của Johnson đã ngăn cản Tổng Thống Eisenhower cứu Đông Dương
vào giờ chót và những năm giữa và cuối thập niên 60, Johnson trở thành Tổng
Thống lại bỏ lỡ cơ hội thêm một lần nữa. Đông Dương đã bắt đầu sụp đổ từ trận
Mậu Thân đầu năm 1968 khi phản chiến lên cao mà không có gì ngăn cản nổi.
Sự sai lầm của một nhà
lãnh đạo đã hai lần nắm giữ vận mạng Đông Dương để rồi con đường đưa tới thảm
kịch những năm sau đó không thể nào tránh khỏi.
Trọng Đạt
______
(1) Henri Navarre,
Agonie de l’Indochine trang 188-200
(2) Sách nêu trên,
trang 47
(3) Quân sử 4, Quân
Lực Việt Nam Cộng Hòa trong giai đọan hình thành 1946-1955, Bộ Tổng Tham Mưu
VNCH 1972 , trang 160
(4) Henri Navarre,
Agonie de l’Indochine trang 230
(5) Bernard Fall, Hell
In A Very Small Place, The Siege of Dien Bien Phu ;
Philippe Devillers:
End of a War, Indochina , 1954
(6) Fredrik Logevall:
Embers Of War, The Fall Of An Empire And The Making of America’s Vietnam, 2012;
Ted Morgam: The Valley Of Death, The Tragedy at Dien Bien Phu That Led
America In to The Vietnam, 2010.
(7) Fredrik Logevall:
Embers of war… trang 467, 468, 469
(8) Bernard Fall, Hell
In A Very Small Place …
trang 301
(9) Ted Morgam: The
Valley Of Death… trang 406
(10) Sách nêu trên các
trang 402, 403, 405, 406, 408
(11) Bernard
Fall, Hell In A Very Small Place trang 313
(12) Sách nêu
trên trang 462
(13) Sách nêu
trên trang 308 “Perhaps without realizing it, Lyndon B. Johnson, on April 3,
1954, had made his first crucial decision on Viet-nam”
(14) The World Almanac
of The Vietnam War trang 95
(15) National
Archives, Statistical Information about Fatal Casualties of the Vietnam War
(16) Richard Nixon: No
More Vietnams, trang 76
(17) Stanley Karnow. Vietnam A History, trang 435
(18) McNamara, In
Retrospect, The Tragedy and Lessons of Vietnam, trang 169
(19) Larry Berman:
Lyndon Johnson’War, The Road to Stalemate in Vietnam , trang 11
(20) George Donelson
Moss: Vietnam ,
An American Ordeal, trang 192
(21) Sách nêu trên,
trang 197
(22) Sách nêu trên,
trang 215
(23) Larry Berman:
Lyndon Johnson’War, The Road to Stalemate in Vietnam trang 13
(24) Sách nêu trên
trang 22
(25) George Moss: Vietnam , An
American Ordeal trang 221
(26) Sách nêu trên
trang 225
(27) Wikipedia:
Opposition to the US
involvement in the Vietnam war.
(28) Richard Nixon: No
More Vietnam trang 88
(29) George Donelson
Moss: Vietnam ,
An American Ordeal trang 194, 198
(30) Lyndon
Johnson’War các trang 15, 24, 25, 33, 53, 73, 94, 118
(31) Sách kể trên
trang 121
(32) sách kể trên
trang 178
(33) Mark Clodfelter:
The Limits of Air Power, The American Bombing of North Vietnam các trang 117,
134,144, 145
(34) Phillip B.
Davidson: Vietnam At War The History 1946-1975 trang 389, 394
(35) Cao Văn Viên:
Những Ngày Cuối của VNCH trang 282
(36) Henry Kissinger:
White House Years trang 247, 248
(37) Richard Nixon: No
More Vietnams trang 82
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét