Kính gửi :
Ban Chấp hành Trung ương
Đồng chí Tổng Bí thư, các
đồng chí trong Bộ Chính trị,
Ban Bí thư và Uỷ ban Kiểm
tra Trung ương
Thời gian qua, tôi vào miền Nam nên không
dự được cuộc họp ngày 5 và 6 tháng 12 [2003] do Bộ Chính trị triệu tập.
Tôi đã đọc và nghiên cứu các
bản dự thảo, báo cáo chuẩn bị trình Hội nghị Trung ương 9 khoá IX :
- Báo cáo kiểm điểm nửa nhiệm
kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX.
- Báo cáo kiểm điểm giữa nhiệm
kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội IX về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
- Báo cáo tình hình thực hiện
kết luận Hội nghị Trung ương 4 khoá IX về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết
Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
ngăn chặn, đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng phí trong 2 năm qua.
Tôi nhận thấy, các dự thảo văn
kiện nói trên được chuẩn bị tích cực, tiếp cận sát hơn tình hình thực hiện
trong nước và thế giới, không chỉ nêu lên những thành tích mà còn nói rõ những
tiềm năng chính được khai thác và những khuyết điểm tồn tại khá trầm trọng.
Nhìn chung, qua 3 năm thực hiện
Nghị quyết Đại hội IX, đất nước tiếp tục phát triển ổn định trong tình hình có
nhiều khó khăng mới. Điều đó cho thấy công cuộc đổi mới đang phát triển đúng
hướng. Tuy nhiên, tôi đồng ý với nhận định của dự thảo là nền kinh tế phát
triển chưa bền vững, tốc độ tăng trưởng chưa tương xứng với mức tăng đầu tư và
tiềm năng của đất nước ; mặt xã hội chuyển biến chậm, hiện tượng tiêu cực, tham
nhũng, lãng phí sa sút về đạo đức vẫn diễn ra phức tạp, có phần nghiêm trọng.
Tôi đề nghị, cần phải phân tích
nguyên nhân của những mặt tồn tại, yếu kém, làm rõ hơn những vấn đề cần tập
trung thực hiện bằng được trong hai năm còn lại. Cần làm rõ vì sao có nhiều
Nghị quyết đúng, nhiều chủ trương đúng nhưng không được thực hiện hoặc thực
hiện không có hiệu quả.
Sau đây, tôi xin phát biểu thêm
một số ý kiến về kinh tế, về giáo dục và khoa học, về quốc phòng, an ninh và về
xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
1. Về nhiệm vụ trung tâm là xây dựng kinh tế
:
Vừa qua, mức tăng trưởng kinh
tế bình quân 3 năm (2001-2003) đạt khoảng 7,1 %/năm, tuy chưa đạt mức Đại hội
IX đề ra là 7,5 %/năm, nhưng vẫn là một cố gắng lớn trong tình hình khu vực và
thế giới đang có những diễn biến phức tạp. Nếu biết huy động và sử dụng tốt
nguồn nội lực, chúng ta hoàn toàn có thể đạt mức tăng trưởng dự kiến của Đại
hội. Nhưng phải thấy rằng, cho dù có đạt được tỷ lệ ấy thì đến năm 2020, nước
ta vẫn còn là một nước kém phát triển ngay trong nhóm các nước ASEAN, vẫn còn
thua Thái Lan khoảng 20 năm về chỉ tiêu GDP/người, nếu so với các nước OECD thì
còn tụt hậu xa hơn nhiều. (Hiện nay, GDP/người của Việt Nam là 400 USD/người, bằng 1/3 Thái Lan, 1/50 Singapore ,
1/70 Mỹ).
Tôi đề nghị, Hội nghị nên thảo
luận vì sao ta không thực hiện được tỷ lệ tăng trưởng cao hơn. Cần có những chủ
trương và biện pháp gì để bảo đảm cho nền kinh tế phát triển nhanh và bền
vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy được nội lực, lợi thế so sánh
và năng lực cạnh tranh trong quá trình hội nhập với khu vực và thế giới.
Chắn chắn trong những năm sắp
tới, với sự phát triển gia tốc của cách mạng khoa học và công nghệ trong thời
đại kinh tế tri thức và văn minh trí tuệ, với nhịp độ phát triển nhanh của các
nước trong khu vực và tính chất cạnh tranh ngày càng gay gắt trong nền kinh tế
thế giới toàn cầu hoá, với xu hướng diễn biến phức tạp của tình hình chính trị
và an ninh quốc tế, nước ta sẽ phải đương đầu với những khó khăn và thách thức
mới khó lường trước được.
Mong rằng, những phương hướng
và chủ trương đúng đắn của Hội nghị Trung ương 9 sẽ được triển khai thực hiện
kiên quyết hơn và có hiệu quả hơn.
2. Về giáo dục và khoa học :
Chúng ta đều thống nhất nhận
thức rằng : Khâu đột phá để thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
đưa nước ta phát triển nhanh và bền vững là giáo dục - đào tạo, khoa học và
công nghệ. Lĩnh vực mà Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII đã xác định là
quốc sách hàng đầu, có quan hệ mật thiết với sự phát triển kinh tế, văn hoá và
xã hội hiện nay và tương lai của đất nước 40 – 50 năm sau, lại đang là vấn đề
gây lo lắng cho toàn xã hội.
Vừa qua, cuộc hội thảo lớn do
Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng báo Nhân dân phối hợp tổ chức đã cho thấy rõ hiện
trạng yếu kém và bất cập của nền giáo dục nước ta.
Tôi đề nghị Hội nghị Trung ương
cần phân tích kỹ nguyên nhân vì sao một chủ trương rất đúng coi giáo dục và
đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu lại không được
thể hiện trên thực tế, mặc dù đã có chiến lược được Chính phủ phê chuẩn.
Về vấn đề này, trước đây tôi đã
có văn bản gửi Bộ Chính trị đề nghị : cần thiết phải có một cuộc cải cách
giáo dục có tính cách mạng. Đây chính là vấn đề quan trọng nhất liên quan
đến chiến lược con người.
Để đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế hiện đại, tiếp cận với nền kinh tế tri thức,
cần phải đổi mới nội dung, chương trình, giáo trình, sách giáo khoa, đổi mới
phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại hoávà tin học hoá hệ thống giáo
dục và đào tạo, kết hợp chặt chẽ khoa học với nhu cầu kinh tế, văn hoá, xã hội.
Cuối năm 2000, Trung ương đã có
chỉ thị về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin trong mọi
lĩnh vực kinh tế và xã hội. Tuy nhiên, cho đến nay, việc ứng dụng công nghệ
thông tin và truyền thông trong hệ thống giáo dục đào tạo vẫn còn hạn chế, còn
kém so với các nước trong vùng (1). Để
tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng giáo dục, cần có chủ trương và
chính sách cụ thể tạo điều kiện cho các nhà doanh nghiệp được tiếp cận dễ dàng
và rộng rãi với mạng máy tính và Internet để phục vụ cho giảng dạy, học tập
nghiên cứu và kinh doanh.
Nếu không kiên quyết thực hiện
bằng được chủ trương : Giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách
hàng đầu thì những mục tiêu trọng yếu mà Hội nghị Trung ương lần này nêu ra như
đẩy nhanh nhịp độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức
cạnh tranh của nền kinh tế, phát triển kinh tế bền vững… chắc chắn không thể
thực hiện được.
Để thực hiện cuộc cải cách giáo
dục có tính cách mạng, cần tổ chức lại hệ thống giáo dục và đào tạo
Tôi kiên trì đề nghị tách Bộ
Giáo dục và Đào tạo thành hai Bộ : Bộ Đại học và Bộ Giáo dục do đối
tượng của mỗi Bộ rất khác và rất lớn, sắp tới phải mở rộng không những cấp
phổ thông mà còn cấp cao đẳng, đại học. Tách bộ phận dạy nghề khỏi Bộ Lao động
và Thương binh Xã hội. Thành lập Tổng cục dạy nghề trực thuộc Chính phủ và có
quan hệ với hai Bộ nói trên. Đồng thời, kiện toàn tổ chức và cán bộ của các cơ
quan lãnh đạo quan trọng đó để triển khai có hiệu quả công cuộc cải cách giáo
dục.
Trong hai năm tới, cần đầu tư
có trọng tâm, trọng điểm để tạo được một bước đột phá trong hoạt động khoa
học và công nghệ.
Trước mắt, tập trung nghiên cứu
và tiếp thu công nghệ hiện đại, đặc biệt là một số lĩnh vực công nghệ cao, từng
bước hình thành một hệ thống công nghệ đồng bộ để nâng cao chất lượng và sức
cạnh tranh của nền kinh tế. Tạo lập và phát triển thị trường khoa học và công
nghệ gắn kết khoa học với kinh tế. Các doanh nghiệp phải có lộ trình đổi mới
công nghệ để nâng cao năng lực hợp tác khu vực và thế giới (AFTA, WTO, APEC,
ASEAN 2020…)
Trong chiến lược xây dựng và
phát triển nền khoa học nước nhà, cần chú ý đúng mức đến nghiên cứu cơ bản,
phát triển một số hướng khoa học và công nghệ mũi nhọn : công nghệ thông
tin, công nghệ tin học, công nghệ vật liệu mới (công nghệ nano), công nghệ
chế tạo và tự động hoá… Cần có kế hoạch đào tạo để sớm khắc phục sự thiếu hụt
đội ngũ cán bộ giáo dục, cán bộ khoa học và công nghệ đầu ngành.
3. Về quốc phòng và an ninh :
Tôi đã có văn bản gửi Bộ Chính
trị những ý kiến cụ thể đóng góp vào Nghị quyết Trung ương 8 khoá IX về “ Chiến
lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới ” và đã nêu ý kiến trực tiếp với
đồng chí Trần Đức Lương.
a) Tôi đã nhiều lần đề nghị chú
trọng vấn đề lãnh hải, biển - đảo, nhưng cho đến nay vẫn chưa thấy có sự quan
tâm. Phương hướng cho hai năm tới trong dự thảo báo cáo trình Hội nghị Trung ương
9 lần này cũng không đề cập tới.
Lãnh thổ nước ta không chỉ có
vùng đất liền mà còn có cả vùng lãnh hải. Chúng ta có nhiệm vụ bảo đảm
chủ quyền quốc gia không những trên bộ, trên không mà cả trên vùng lãnh hải.
Vùng lãnh hải với thềm lục địa, đặc quyền kinh tế và an ninh quốc phòng có tầm
quan trọng ngày càng lớn.
Các nước lớn trong khu vực Châu
Á - Thái Bình Dương coi thế kỷ XXI là thế kỷ của biển và đại dương. Nhiều nước
đã hoạch định chiến lược tổng thể về biển với những chủ trương và chính sách cụ
thể liên quan đến chủ quyền lãnh hải, an ninh kinh tế và an ninh quốc phòng.
Trung Quốc xác định : để mở rộng không gian sinh tồn, việc tiến ra biển
khơi, khai thác nguồn tài nguyên biển liên quan đến khả năng tiếp tục phát
triển và sự tồn vong của dân tộc Trung Hoa ; Trung Quốc đang ra sức tăng cường
lực lượng hải quân và không quân để giành quyền kiểm soát trên không và trên
biển ở khu vực Tây Thái Bình Dương và Biển Đông, và luôn khẳng định chủ quyền
đối với quần đảo Trường Sa. Nhật Bản khẳng định quốc sách bảo đảm tuyến giao
thông trên biển 1000 hải lý. Mỹ coi việc bảo đảm an toàn tuyến đường vận chuyển
nối liền Tây Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương và Đại Tây Dương là một bộ phận
quan trọng trong chiến lược địa lý – chính trị toàn cầu và chiến lược quốc gia
về chủ quyền và an ninh trên biển.
Mục tiêu địa lý – chính trị
phức tạp của các nước Châu Á - Thái Bình Dương gắn liền với cuộc đấu tranh
giành giật chủ quyền lãnh hải và khai thác tài nguyên ở biển và đại dương sẽ
tác động mạnh mẽ đến sự thay đổi cục diện chiến lược khu vực và toàn cầu trong
thế kỷ XXI.
Tôi đề nghị cần sớm nghiên
cứu xây dựng chiến lược toàn diện về lãnh hải của nước ta từ nay đến năm 2010
và 2020 trên nguyên tắc kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh. Đồng thời, có kế hoạch triển khai từng bước thiết
thực và có hiệu quả.
Cần có một cơ quan Nhà nước
mang tính liên ngành để lãnh đạo và điều phối chung các hoạt động kinh tế và
quốc phòng trên vùng lãnh hải.
Trước mắt, cần tổ chức các đội
tầu, thuyền đánh bắt cá và khai thác tài nguyên xa bờ kết hợp với lực lượng hải
quân để giữ vững chủ quyền và an ninh trên vùng lãnh hải và quần đảo Trường Sa,
không để cho các tầu thuyền nước ngoài xâm phạm.
b) Trong chiến lược phát triển
các vùng lãnh thổ của đất nước, việc mở mang phát triển các vùng miền núi, nơi
tập trung các đồng bào dân tộc ít người sinh sống, là vấn đề có tầm quan trọng
trong chiến lược về chính trị, kinh tế và quốc phòng, an ninh.
Trong việc đầu tư phát triển
các vùng miền nói chung Trung ương đã chú trọng, song cần chú trọng hơn nữa đến
vùng căn cứ địa Việt Bắc (Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên
Quang, Hà Giang).
Trước mắt, ở Cao Bằng, cần mở
mang hệ thống giao thông (đường số 3, sân bay…) tạo điều kiện để phát triển
kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế và cải thiện đời sống nhân dân, từng bước xây
dựng tỉnh Cao Bằng – “ ngôi sao cách mạng của Việt Bắc ” nơi Bác Hồ đã từ nước
ngoài trở về đây để trực tiếp lãnh đạo Cách mạng Việt Nam, thành một địa bàn mà
nhân dân nhất là thanh niên có thể có đủ điều kiện thăm viếng, hơn nữa có thể
tổ chức thành khu du lịch quan trọng đối với các khách trong nước và quốc tế.
Vấn đề này có ý nghĩa chiến
lược về chính trị, kinh tế và cả về quốc phòng, an ninh của nước ta. Hoặc bên
kia biên giới, nước bạn đã xây dựng tuyến đường cao tốc xuyên Á nối với Thái
Lan, với Myanmar và Ấn Độ Dương, và gần đây trong chiến lược triển khai cuộc
cách mạng quân sự mới đã tăng cường bố trí lực lượng quân sự ở các vùng biên
giới.
4. Vấn đề chống tham nhũng, lãng phí :
Hội nghị Trung ương 4 khoá IX
đã khẳng định tầm quan trọng và sự cần thiết phải tiếp tục đầy mạnh cuộc vận
động xây dựng chỉnh đốn Đảng với nhiệm vụ trung tâm trước mắt là chống tham
nhũng, lãng phí đã được đặt ra từ Hội nghị Trung ương (lần 2) khoá VIII.
Tôi đồng ý với đánh giá nêu
trong dự thảo trình Hội nghị Trung ương 9 : trong 3 năm vừa qua, tuy có phát
hiện và xử lý một số vụ tiêu cực, nhưng cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng,
chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt yêu cầu, chưa có chuyển biến căn bản.
Cho đến nay, nạn tham nhũng,
lãng phí vẫn chưa được chặn đứng và đẩy lùi. Sự suy thoái về phẩm chất chính
trị, đạo đức và lối sống của một bộ phận không ít đảng viên, cán bộ vẫn diễn ra
nghiêm trọng. Nhiều vụ việc tiêu cực có liên quan đến các cán bộ và cơ quan
chuyên chính của Đảng và Nhà nước đều do nhân dân phát hiện.
Chưa thấy một đảng viên nào tự
giác nhận trách nhiệm hoặc một cấp uỷ đảng nào phát hiện nội bộ có tham nhũng.
Tôi đề nghị Trung ương và Bộ
Chính trị cần kiểm điểm nghiêm khắc vì sao vừa qua ta đã có nghị quyết, có pháp
lệnh, có cuộc vận động chống tham nhũng, lãng phí trong toàn Đảng và các cơ
quan Nhà nước mà những tệ nạn này vẫn phát triển phức tạp và nghiêm trọng,
đặc biệt là trong các lĩnh vực xây dựng cơ bản, tài chính doanh nghiệp, sử
dụng ngân sách Nhà nước… Lối sống cơ hội vẫn diễn ra dưới nhiều hình thức :
chạy chức, chạy quyền, chạy bằng cấp, chạy dự án, chạy vốn, chạy tội…. Việc xem
xét, xử lý cán bộ, đảng viên có những hoạt động sai trái, tiêu cực không nghiêm
minh.
Chống tham nhũng, lãng phí và
những việc phạm pháp, tiêu cực khác là chống “ giặc nội xâm ” chỉ có thể thành
công nếu biết dựa vào dân như Bác Hồ đã dạy. Bởi vậy, cần có cơ chế thực hiện
dân chủ, công khai, minh bạch để đảng viên và nhân dân giám sát, thu hút được
sự tham gia vận rộng rãi của toàn dân và cả hệ thống chính trị – xã hội mới có
thể ngăn chặn được những tệ nạn đó. Đã gọi là “ giặc nội xâm ” thì phải kiên
quyết xử lý, trừng trị nghiêm khắc, tiêu trừ bằng được.
5. Về nhiệm vụ then chốt : xây dựng và chỉnh
đốn Đảng
Tôi đồng ý với nhận định của Dự
thảo là công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng vừa qua chưa đạt yêu cầu ; chưa chú
trọng đến công tác chính trị và tư tưởng để cho chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cá
nhân, chủ nghĩa thực dụng tồn tại kéo dài. Các cấp uỷ Đảng thiếu tính chiến
đấu, thiếu tinh thần tự phê bình và phê bình, không có sự thẳng thắn, dũng cảm
đấu tranh. Hiện tượng thiếu dân chủ, chuyên quyền độc đoán trong Đảng, tình
trạng vi phạm nguyên tắc tổ chức Đảng, coi thường kỷ cương phép nước của cán bộ
đảng viên, làm mất lòng tin của dân đã thực sự là nguy cơ đe doạ sự tồn vong
của Đảng.
Đảng ta xác định : xây dựng
Đảng là nhiệm vụ then chốt. Bởi vì, sự nghiệp đổi mới có thành công hay không,
có chệch hướng hay không, nhân tố quyết định là Đảng có vững mạnh không, có
kiên trì chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh hay không ; cán
bộ, đảng viên có thật sự vì nước, vì dân hay không.
Một Đảng tiên phong, trước hết
phải có đường lối đúng. Vì vậy, đề nghị Trung ương coi trọng hơn nữa công tác
lý luận : Nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận, giải
đáp đúng những vấn đề do thực tiễn đặt ra với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng
tạo, chống các xu hướng tả khuynh giáo điều cũng như hữu khuynh cơ hội, kiên
trì đưa đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Quán triệt Nghị quyết Trung
ương 6 (lần 2) coi trọng xây dựng Đảng cả về quan điểm chính trị, tư tưởng
và đạo đức, lối sống, không cho phép chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa thực dụng,
chủ nghĩa cá nhân, cục bộ, bản vị tồn tại và lũng đoạn Đảng, lũng đoạn các cơ
quan Nhà nước.
6. Về công tác cán bộ :
Muốn xây dựng Đảng mạnh thì
công tác cán bộ có ý nghĩa quyết định.
Dự thảo báo cáo đã nêu : Công
tác cán bộ hiện nay còn nhiều yếu kém, bất cập. Việc đánh giá và quản lý
cán bộ vẫn là khâu yếu nhất, chậm được khắc phục. Chậm xây dựng cơ chế, chính
sách phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài.
Đảng ta đã nêu rõ : cán bộ tốt
là cán bộ có đức, có tài.
Công tác cán bộ cần định ra
chuẩn mực và cơ chế đánh giá để tuyển chọn một cách dân chủ và công bằng những
cán bộ có đức, có tài, loại bỏ bằng được mọi quyết định chuyên quyền độc đoán,
áp đặt, chỉ lựa chọn những người thân quen để tạo ra bè cánh trong Đảng.
Xây dựng quy chế tham gia giám
sát của nhân dân và đảng viên, quy chế thanh tra, kiểm tra của các cơ quan lập
pháp. Xử lý nghiêm minh những cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật và kỷ luật
của Đảng.
Mọi ý kiến phản ánh và chất vấn
của đảng viên và nhân dân đối với tình hình nội bộ Đảng, đối với cấp uỷ, kể cả
đối với các cán bộ cấp cao của Đảng phải được trả lời và giải quyết minh bạch.
7. Về công tác bảo vệ chính trị nội bộ
Dự thảo báo cáo đã nêu khuyết
điểm : chậm kết luận rõ một sô trường hợp, một số vấn đề tồn tại cũ và mới phát
sinh.
Đề nghị Hội nghị Trung ương lần
này cần kiểm điểm nghiêm khắc vì sao tình trạng vi phạm nguyên tắc tổ chức và
kỷ luật Đảng kéo dài ở cấp Trung ương mà Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính
trị đã thấy rõ và đã có nghị Nghị quyết khẳng định phải giải quyết nhưng cho
đến nay vẫn để tồn tại không giải quyết.
Điển hình nghiêm trọng là vụ
Tổng cục II thuộc Bộ Quốc Phòng. Những người đứng đầu và những phần tử xấu
trong Tổng cục II đã có những hoạt động phá hoại Đảng nghiêm trọng một cách có
hệ thống, có tổ chức kéo dài hàng chục năm, đặt máy nghe trộm các đồng chí lãnh
đạo và các cán bộ cấp cao, sử dụng những thông tin sai lệch để phá rối và chia
rẽ nội bộ, cố tình gây ra bè phái trong Đảng, tạo ra chứng cứ giả để hãm hại
những cán bộ tốt của Đảng, vi phạm nghiêm trọng đến điều lệ của Đảng, vi phạm
pháp luật Nhà nước và kỷ luật của quân đội. Đương nhiên, trong Tổng cục vẫn có
một số cán bộ tốt đã bị lợi dụng.
Tôi đề nghị Ban Chấp hành Trung
ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương kiên quyết kiểm tra
và xử lý nghiêm minh, dứt điểm. Không cho phép duy trì mãi một tổ chức siêu
đảng, siêu Chính phủ. Không thể để Tổng cục II tồn tại với quyền hạn quá rộng
như Nghị quyết 96/CP đã cho phép, mà chỉ tập trung vào nhiệm vụ tình báo quân
sự trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu như trước đây.
Việc bảo đảm an ninh nội bộ
sẽ giao cho Ban bảo vệ chính trị nội bộ phụ trách dưới sự chỉ đạo trực tiếp của
Bộ Chính trị.
Vấn đề chấn chỉnh Tổng cục II
liên quan sâu sắc đến tình hình chung của toàn Đảng, không chỉ là vấn đề cụ thể
của một cơ quan, cũng không phải là vấn đề riêng của Bộ Quốc phòng, mà là vấn
đề có liên quan đến thành bại của công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đến việc
giải quyết những vấn đề tồn tại trong Đảng từ trước tới nay.
Đặc biệt nghiêm trọng là vụ Sáu
Sứ diễn ra cuối khoá VI trước thềm Đại hội VII mà Hội nghị Trung ương 12 và 13
khoá VI đã bàn giao cho Trung ương khoá VII giải quyết.
Nghiêm trọng hơn nữa là vụ T4
mà Bộ Chính trị khoá VIII đã bàn giao lại cho Bộ Chính trị khoá IX. Bộ Chính
trị khoá IX đã chỉ đạo Ban điều tra liên ngành tiến hành điều tra và Bộ Chính
trị đã kết luận T4 là một vụ án chính trị “ siêu nghiêm trọng ” vi phạm kỷ luật
của quân đội.
Tôi đề nghị Hội nghị Trung
ương 9 khoá IX xử lý kiên quyết, dứt điểm, nghiêm minh những vụ việc tồn đọng
nói trên theo đúng điều lệ của Đảng, pháp luật của Nhà nước và kỷ luật của quân
đội, dù người đó là ai, ở bất cứ cương vị nào. Và thông báo công khai cho Ban Chấp hành Trung ương
khoá IX, cho các đồng chí uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Uỷ ban kiểm tra
Trung ương các khoá trước.
Kỷ luật của Đảng và pháp luật
của Nhà nước đòi hỏi không được phép bao che, né tránh, làm qua loa, mà phải
kiên quyết xử lý cả những kẻ bao che.
* * *
Cuối thư, xin chúc Hội nghị
Trung ương 9 với tinh thần trách nhiệm cao, nhìn thẳng vào sự thật, thấy rõ
thành tựu đồng thời thấy rõ những mặt tồn tại yếu kém, đề ra được những chủ
trương sát đúng, đưa nền kinh tế và xã hội nước ta phát triển nhanh hơn và vững
hơn nữa, xây dựng và chỉnh đốn Đảng có hiệu quả rõ rệt, nhất là chống quan
liêu, tham nhũng, lãng phí.
Thắng lợi của Hội nghị Trung
ương 9 lần này còn có ý nghĩa chuẩn bị một bước cho Đại hội X. Do vậy, mong
rằng toàn thể các đồng chí uỷ viên Trung ương nhận rõ trách nhiệm lớn, luôn noi
gương tự phê bình và phê bình của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đưa Hội nghị đến thành
công lớn.
Chúc các đồng chí mạnh khoẻ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét