'Hậu quả tai hại của Hội nghị Thành Đô'
Dương
Danh Dy - Nhà nghiên cứu Trung Quốc
( Trừ Nguyễn cơ Thạch, tất cả lãnh đạo VN đều có tội với ND và tổ quốc VN, Nguyễn Văn Linh không phải là tác giả Đổi mới )
...Hơn
20 năm sau Hội nghị Thành Đô, nay có dịp nhìn lại vấn đề, người ta sẽ thấy
“ngộ” ra được một số điều mà ngay từ khi được phổ biến kết quả của Hội nghị,
những người quan tâm đến tình hình đất nước lúc đó đã ít nhiều biểu thị sự
không đồng tình.
Bước đầu, xin mạnh dạn công khai một số yếu kém của phía chúng
ta, cũng như xin thẳng thắn đề cập tới một vài tác hại của những “quyết đoán”
sai lầm khi đó đối với đất nước.
Nêu ra một số việc, không phải là muốn truy cứu trách nhiệm
chính trị, hoặc nhằm bôi xấu, hạ thấp uy tín của một ai mà chỉ nhằm một mục
đích: nếu không thấy hết những dại khờ, non yếu của chúng ta, không vạch trần
những mưu ma chước quỷ của kẻ mà cho đến tận giờ phút này trong chúng ta vẫn còn
có không ít ngưòi lầm tưởng họ là những đồng chí cộng sản, những người đang
cùng chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội thì sẽ là một nguy hại to lớn, lâu dài,
tiềm ẩn đối với dân tộc.
Ngoài
những nhân nhượng vô nguyên tắc về Campuchia như đã trình bày ở bài trước,
phía Việt Nam đã không hề (hay không dám) đề cập tới nguyên nhân tạo ra bất
đồng trong quan hệ Việt Trung trong hơn 10 năm qua nhất là cuộc Chiến tranh
Biên giới tháng 2 năm 1979 do Ban lãnh đạo Bắc Kinh cố tình, chủ động gây ra.
Phía Việt Nam
đã hoàn toàn cho qua vấn đề sau khi nghe Giang Trạch Dân nói trong diễn văn:
quan hệ hai nước từ nay “hãy gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”.
Đó là những điều ngưòi viết bài này thu nhận được sau khi đã hỏi
kỹ đồng chí phiên dịch và nói chuyện nghiêm túc nhiều lần với đồng chí Hồng Hà
khi đồng chí còn sống tại một số cuộc họp và tại phòng làm việc của đồng chí
tại số 2 Nguyễn Cảnh Trân và tại nhà riêng của tôi do đồng chí chủ động tới gặp.
Không dám hé một lời
Chúng ta không đòi Trung Quốc phải bồi thường chiến tranh trong
khi đã nêu vấn đế Mỹ bồi thường chiến tranh là điều kiện tiên quyết để bình
thường hoá quan hệ hai nước nhưng tại sao trong đàm phán bí mật lại không dám
nói dù chỉ là một lời với Trung Quốc về cuộc chiến tranh tàn ác đó và buộc họ
chí ít phải nói ra câu 'lấy làm tiếc' về hành động phi nghĩa của mình?
Nhượng bộ vô nguyên tắc này của Việt Nam đã làm cho Trung Quốc
dường như giành được 'vị thế chính nghĩa' trước dư luận quốc tế và nhất là
trong đông đảo nhân dân Trung Quốc dù họ mang hơn 60 vạn quân chính quy xâm
lược, giết hại nhiều đồng bào ta, tàn phá nhiều cơ sở vật chất của ta tại vùng sáu
tỉnh biên giới Việt Nam.
Làm cho một bộ phận người trên thế giới cho rằng những vu cáo
bịa đặt của Trung Quốc: 'Việt Nam xua đuổi người Hoa', 'Việt Nam xâm lược
Campuchia'… là đúng, việc thế giới 'lên án, bao vây cấm vận Việt Nam' là cần
thiết, việc Trung Quốc 'cho Việt Nam một bài học' là phải đạo…trong khi chính
chúng ta mới là ngườì có công lớn trong việc đánh tan bọn Khơme Đỏ, cứu nhân
dân Campuchia khỏi nạn diệt chủng. Tóm lại là đã làm cho khá nhiều người trong
thời gian khá dài hiểu lầm, ác cảm với Việt Nam .
Cho tới khi đặt bút viết những dòng này mặc dù đã mất nhiều công
sức tìm hiểu, người viết vẫn chưa biết ai là người đề xuất chủ trương cấm không
được nói lại chuyện cũ với Trung Quốc, khiến cho trong hơn 20 năm qua, trên các
phương tiện truyền thông của Việt Nam không hề có một tin tức nào động chạm tới
Trung Quốc. Ngay cả tên tuổi, nghĩa trang của các liệt sĩ hy sinh trong cuộc
đấu tranh yêu nước thần thánh trên cũng bị cố tình lảng tránh không dám công
khai nói tới, thậm chí bị lãng quên.
( Bắt dân VN lãng quên cuộc chiến tháng 2 năm 1979 )
Cần phải nói ra đây một sự thực là trong khi đó, báo, mạng chính
thống của Trung Quốc vẫn ra sức tung hoành, không hề bị một sự cấm đoán, hạn
chế nào, ngày ngày tìm hết cách để bôi xấu, xuyên tạc Việt Nam về mọi mặt, đến
nỗi phần lớn người dân Trung Quốc bình thường khi được hỏi về Việt nam cũng
thốt lên, Việt Nam là 'vô ơn bội nghĩa, là kẻ ăn cháo đá bát'...
Theo tài liệu chính thức của Trung Quốc trong một cuộc điều tra
công khai, đã có tới “80% dân mạng Trung Quốc - tức khoảng 300 triệu ngưòi-chủ
yếu là thanh niên và người có học - tán thành dùng biện pháp vũ lực với Việt
Nam tại Biển Đông.
Cảm tình, ấn tượng tốt đẹp của đa số nhân dân Trung Quốc về một
nước Việt Nam
anh dũng trong chiến đấu, cần cù trong lao động, hữu nghị với Trung Quốc trước
đây dường như không còn nữa. Hậu quả tai hại này chưa biết bao giờ mới xoá bỏ
được.
Chấp nhận yêu sách trắng trợn của phía Trung Quốc gạt bỏ mọi
chức vụ trong và ngoài đảng đồng chí Nguyễn Cơ Thạch, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam, rồi lợi dụng
mọi cơ hội đế đến Đại hội 8 Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức làm được việc
đó khi đồng chí là một trong số rất ít người lãnh đạo có tư duy sáng tạo, am
hiểu tình hình quốc tế, có sức khoẻ dồi dào, có uy tín quốc tế, nhất là đối với
các nước Phương Tây là một việc làm thể hiện sự yếu kém về bản lĩnh và sự tha
hoá về tình nghĩa cộng sản, là một việc làm dại dột “vác đá tự ghè chân mình”...
Có thể nói mà không sợ quá mức rằng, nếu Nguyễn Cơ Thạch còn
trong ban lãnh đạo cấp cao Đảng ta một nhiệm kỳ nữa thì việc bình thường hoá
quan hệ Việt Mỹ và việc Việt Nam gia nhập Asean chắc chắn không phải mãi đến
năm 1995 mới thực hiện, chậm hơn việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc
tới gần 5 năm.
Ban lãnh đạo Bắc Kinh các thế hệ, lo sợ ảnh hưởng của Nguyễn Cơ
Thạch tới mức, mặc dù ông buộc phải nghỉ hưu và mất đã khá lâu mà hơn hai mươi
năm sau ngày bình thưòng hoá quan hệ Việt Trung, tại Đại hội lần thứ XI ĐCSVN
tháng 1 năm 2011 họ còn không muốn để con trai ông làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao
Việt Nam (lời nguời lãnh đạo đảng ta lúc đó nói, tôi được nguyên đại sứ Việt
Nam tại Trung Quốc Nguyễn Trọng Vĩnh trực tiếp cho biết)
Cần nói thêm, việc ngoan ngoãn chấp hành yêu sách gạt bỏ đồng
chí Nguyễn Cơ Thạch đã tạo điều kiện để từ sau đó, Bắc Kinh can thiệp ngày càng
sâu hơn vào công tác cán bộ, nhân sự chủ chốt của đảng và nhà nước ta qua mấy
kỳ đại hội Đảng (IX, X, và XI) nhằm có người thân Trung Quốc trong cơ cấu lãnh
đạo cấp cao.
( Quan hệ Việt - Trung đã trải qua nhiều bước thăng trầm )
Việc tỏ ý không muốn thấy con trai đồng chí Nguyễn Cơ Thạch nêu
trên chỉ là một ví dụ gần đây nhất.
Đây là việc chưa từng có trong Đảng ta. Chúng ta đều biết thời
Bác Hồ, trong Đảng ta tuy có người này kẻ kia thân Liên Xô, thân Trung Quốc
nhưng ngưòi nào cũng phải nghiêm chỉnh chấp hành đường lối của Đảng, thời đồng
chí Lê Duấn là người lãnh đạo chủ yếu đã không duy trì được nếp chung sống đó,
nhưng bất kể là ai hễ thân Liên Xô, thân Trung Quốc trong đảng đều bị loại trừ.
Có thể nhận định thế này thế nọ về hiện tượng trên nhưng có một
điều có thể khẳng định, thời đó nước ngoài và nhất là Trung Quốc, không thể
trực tiếp thò tay can thiệp vào nội bộ Đảng ta nhất là vê công tác nhân sự tổ
chức.
Nhưng từ năm 1991 đến nay, việc Trung Quốc can thiệp vào nội bộ
ta đã hầu như đã diễn ra thường xuyên và chưa hề bị lên án. Phải chăng đã xuất
hiện 'Nhóm lợi ích thân Trung Quốc' trong Đảng ta? Không giải quyết được tình
trạng này thì hậu hoạn khôn lường.
Bài học bị dắt mũi nhớ đời
Không thể dùng các từ ngữ thông thưòng để đánh giá các hậu quả
trên mà phải dùng từ “cái giá phải trả bằng xương máu” mới phản ánh đúng bản
chất của vấn đề.
Hội nghị Thành Đô đã, đang và sẽ còn mang lại cho đất nước chúng
những hậu quả to lớn, cay đắng, nhục nhã...
Vì vậy một vấn đề cũng quan trọng không kém mà người viết xin
mạnh dạn khởi đầu trước: từ những cái giá phải trả đó chúng ta cần rút ra những
bài học gì? Cần ghi nhớ những bài học nào?
1. Những ngưòi lãnh đạo chủ chốt của Đảng ta lúc đó hầu như
không nắm được những thay đổi, những diễn biến lớn trên trường quốc tế, nhất là
về các nước XHCN Đông Âu, tình hình Liên Xô, tình hình Mỹ cũng như tình hình
đối thủ trực tiếp của mình lúc đó là Trung Quốc. Từ đó đã có những nhận định
rất sai lầm để rồi đưa ra những quyết định rất sai lầm.
-
( Lãnh đạo Vn đã nhận định sai về thế quan hệ Trung - Xô )
Thắng lợi của Công đoàn Đoàn kết tại Ba Lan, sự kiện Bức tường
Berlin bị nhân dân Đức xoá bỏ, việc Yeltsin giành chiến thắng trong cuộc bầu cử
tại Liên bang Nga, Gorbachev từ bỏ chủ nghĩa xã hội và đảng cộng sản… đã không
làm cho một số ngưòi trong ban lãnh đạo chúng ta thấy rằng chủ nghĩa xã hội đã
không còn được nhân dân ở chính ngay những nước đó ưa thích, theo đuổi, sự sụp
đổ của họ là lẽ tất nhiên.
Trong tình hình như thế mà lại chủ trương 'bình thường hoá quan
hệ với Trung Quốc để bảo vệ chủ nghĩa xã hội, chống đế quốc', 'Mỹ và Phương Tây
muốn cơ hội này để xoá cộng sản'.
"Nó đang xoá ở Đông Âu. Nó tuyên bố là xoá cộng sản trên
toàn thế giới. Rõ ràng là nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải tìm đồng
minh. Đồng minh này là Trung Quốc.” (trích Hồi ký Trần Quang Cơ)
Cần thấy rằng, trước đó Liên Xô là chỗ dựa về nhiều mặt của Việt
Nam, tuy vậy phải nói thẳng ra rằng, so với Cuba thì Việt Nam tương đối ít lệ
thuộc hơn. Thế nhưng trong khi Cuba phụ thuộc nặng nề vào Liên Xô, lại ở ngay
sát nách Mỹ đã không tỏ ra hoảng hốt khi Liên Xô tan rã, và các bạn ấy vẫn hiên
ngang đứng vững từ đó đến nay, Mỹ không dám can thiệp… thì Việt Nam đã phải vội
vã quay sang tìm đồng minh ngay với kẻ đang là đối thủ nguy hiểm trực tiếp của
mình chỉ vì cái đại cục chung chung, chỉ vì sợ mất chỗ dựa, sợ có thể mất chủ
nghĩa xã hội, mất Đảng.
Không thấy hết những khó khăn trong ngoài nước của Trung Quốc
lúc đó. Trong nước họ vừa xảy ra sự kiện Thiên An Môn, Triệu Tử Dương bị cách
chức Tổng Bí thư, nội bộ lãnh đạo cấp cao bất đồng sâu sắc, một bộ phận nhân
dân bất mãn với Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Do đàn áp đẫm máu học sinh sinh viên, Trung Quốc bị các nước
Phương Tây chủ yếu cấm vận về chính trị, kinh tế, quân sự, có hạng mục như xuất
khẩu kỹ thuật cao trong quân sự đến nay vẫn chưa huỷ bỏ.
Họ ở vào thế không có lợi nhiều mặt khi bình thường hoá quan hệ
với ta, nhưng do mấy nhà lãnh đạo chúng ta lúc đó đánh giá không đúng tình hình
nên không những không sử dụng được lợi thế của mình, mà còn bị Trung Quốc 'dắt
mũi' kéo theo, thiệt đơn thiệt kép trong xử lý quan hệ cũ và trong giai đoạn
bình thường quan hệ mới, cho tới tận bây giờ và cả trong tương lai nữa.
( Năm 1990, lãnh đạo Vn đã đánh mất bản lĩnh và trở nên sợ kẻ địch )
Không thể không đề cập tới một vấn đề nữa là trong hơn 10 năm
đối kháng, nhà nước Xã hội chủ nghĩa Trung Quốc, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã
không từ thủ đoạn nào trong đối xử với nước ta, không những thế thái độ của họ
trong đối xử với Liên Xô, trong đối xử với nước Ấn Độ láng giềng đồng tác giả
với họ trong đề xướng 5 nguyên tăc chung sống hoà bình những năm trước đó.
Chẳng lẽ Ban lãnh đạo Việt Nam lúc đó lại không thấy chút nào?
2. Bằng những thoả thuận tại Hội nghị Thành Đô, mấy nhà lãnh đạo
chủ yếu của Đảng ta lúc đó đã tự đánh mất bản lĩnh kiên cường, bất khuất, không
sợ địch mà nhiều thế hệ lãnh đạo đã nêu cao, để sẵn sàng nhận sai về phần mình
trước kẻ thù, tuỳ tiện đổ lỗi cho người tiền nhiệm.
Người viết bài này không hiểu vì sao, người đại diện cho Đảng
ta, một nhân vật có tinh thần sáng tạo lớn với ý chí kiên cường đã tích cực
phát triển đường lối cải cách và Đổi mới và chỉ đạo toàn Đảng toàn dân thu được
những thành tích to lớn rất quan trọng bước đầu, thế nhưng trước đối thủ Trung
Quốc hình như chỉ còn là chiếc bóng, mất hết cảnh giác cách mạng gật đầu tin
tưởng và làm theo mọi đề xuất mang đầy chất lừa bịp 'vì chủ nghĩa xã hội', 'vì
đại cục' của Trung Quốc, thậm chí chấp nhận để họ can thiệp vào công việc nhân
sự cấp cao của đảng ta.
Bài học này, cần được phân tích sâu sắc trong toàn Đảng, toàn
dân, một mặt để thấy rõ sai lầm quá khứ, một mặt để ngăn chặn, phá tan những âm
mưu, mánh khoé mới của ngưòi 'láng giềng bốn tốt', của 'những đồng chí' luôn
rêu rao '16 chữ vàng' đang không ngừng vận dụng những thành quả cũ vào trong
quan hệ với Việt Nam chúng ta hiện nay và trong tương lai.
Bài
viết thể hiện quan điểm riêng của nhà ngoại giao kỳ cựu Dương Danh Dy, hiện
sống tại Hà Nội. Mời quý vị đọc bài trước 'Họp Thành Đô
'nguyên nhân và diễn biến'
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét