Chủ Nhật, 20 tháng 12, 2015

Tổng cục 2, Bộ Quốc phòng Việt Nam


   ( Bách khoa toàn thư mở Wikipedia )
Tổng cục 2, Bộ Quốc phòng Việt Nam tức Tổng cục Tình báo quốc phòng được thành lập trên cơ sở Cục Tình/Quân báo (Cục 2), Bộ Quốc phòng năm 1995 và hoạt động theo Pháp lệnh tình báo do Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh ký ngày 14 tháng 12 năm 1996 và nghị định 96/CP do Thủ tướng Võ Văn Kiệt ký ngày 11 tháng 9 năm 1997.
 Nhiệm vụ:
  • "Lực lượng tình báo thuộc Bộ Quốc phòng là lực lượng chuyên trách về công tác tình báo chiến lược hoạt động trên các lĩnh vực tình báo chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế, khoa học kỹ thuật, công nghệ môi trường, văn hoá xã hội, thu thập và xử lý tin liên quan đến lợi ích quan trọng, sống còn của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, góp phần tham mưu cho ĐảngNhà nước hoạch định đường lối, sách lược đối nội, đối ngoại và các chủ trương, kế hoạch, biện pháp, quyết sách để thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược…" (Điều 1 chương 1 của nghị định 96/CP).
  • "Đối tượng và mục tiêu của lực lượng tình báo thuộc Bộ Quốc phòng là những nơi có tin tức, tài liệu liên quan đến nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Trong đó đặc biệt chú ý đến các quốc gia, tổ chức và các cá nhân ở trong nước và ngoài nước có âm mưu hoạt động, đe doạ chống lại Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam" (Điều 11, chương 2 của nghị định 96/CP).
 Tổ chức:
Lãnh đạo:

  • Phó Tổng cục trưởng :
    • Thiếu tướng Phạm Ngọc Hùng (Ngoại giao)
    • Thiếu tướng Hoài Thanh
    • Thiếu tướng Dương Xuân Vinh (Văn hóa - Tư tưởng & Thông tin)
    • Đại tá Nguyễn Minh Tân
 Cơ cấu:
  • Cơ quan Tổng cục. Trụ sở tại Mỹ Đình.
  • Bộ Tham mưu.
  • Cục Chính trị.
  • Cục Hậu cần. Ngày truyền thống: 19 tháng 11, 1966
  • Cục Kỹ thuật.
  • Cục 25  Cục trưởng: Thiếu tướng Đỗ Văn Nghị.
  • Các Cục: 11, 12 (3 lần AHLLVT), 15, 16 (1 lần AHLLVT), 71.
  • Trung tâm A95 (trinh sát kỹ thuật), TT 701, TT 501,...
  • Viện V75 (Lai Xá, Hoài Đức, Hà Tây),
  • Viện V70 (nằm trong thành Hà Nội)
Viện trưởng: Thiếu tướng Phan Hải Quân.
  • Đoàn Trinh sát - Đặc nhiệm: K3 (Đơn vị nằm ở Yên Nội Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (2005)), đoàn 74, đoàn 94.
  • Tạp chí Kiến thức Quốc phòng hiện đại (tên tạp chí thay đổi từ 2/1999, trước đó có tên gọi là Quân sự nước ngoài. Năm 1963, lần đầu tiên xuất bản tạp chí Tin Quân sự địch, nhưng từ sau 1975 thì đổi tên thành Quân sự nước ngoài, cho đến năm 1999 lại đổi thành Kiến thức Quốc phòng hiện đại, và hiện nay đang có kế hoạch xuất bản mới với tên gọi Hiện thực Quốc phòng thời nay). : Tổng Biên tập: Thiếu tướng Trần Ánh Dương.
  • Học viện Khoa học Quân sự
  • Công ty ứng dụng công nghệ cao (HITACO)
  • Công ty xuất nhập khẩu công nghệ Vạn Xuân (VAXUCO)
  • Công ty Hatutour
  • Công ty SECOTEX
  • Bảo tàng Tổng cục II - Bộ Quốc phòng: Số 322 đường Lê Trọng Tấn, Quận Hoàng Mai, Hà Nội
 Lịch sử:
Lực lượng Tình báo quân sự bắt nguồn từ phòng Tình báo Quân ủy hội do Hoàng Minh Đạo phụ trách, thành lập ngày 25 tháng 10, 1945 (được lấy làm ngày truyền thống của Tình báo Quốc phòng Việt Nam). Hoàng Minh Đạo (tên thật là Đào Phúc Lộc) được coi là thủ trưởng đầu tiên của ngành tình báo quân sự.
Theo sắc lệnh của Chủ tịch Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa số 34 ngày 25 tháng 4 năm 1946, Điều thứ 10: "Tình báo cục" có nhiệm vụ trinh sát tình hình quân địch, tình hình quân đội của mình, và thu thập các tin tức lợi cho việc hành binh.
Tháng 9 năm 1946, Phòng Tình báo Quân ủy hội mở một lớp huấn luyện nghiệp vụ tại Sơn Tây, do đại tá Lâm Sơn (người Nhật), làm giảng viên về nghiệp vụ tình báo.
Cục Tình báo được thành lập ngày 20 tháng 3 năm 1947.
 Danh sách các đời Cục trưởng / Tổng cục trưởng:
  • Hoàng Minh Đạo (Đào Phúc Lộc, Năm Đời): Thủ trưởng đầu tiên của ngành tình báo quân sự Việt Nam, nguyên là trưởng phòng Tình báo Quân Ủy Hội (thành lập ngày 25 tháng 10, 1945).
  • Trần Hiệu: Cục trưởng đầu tiên của Cục Quân báo 1952 - 1960.
  • Lê Trọng Nghĩa: Đại tá, Cục trưởng Cục Quân báo 1960 - 1962. (tham khảo nguồn ghi trên bia một ở Nghĩa Trang Liệt Sỹ TP HCM)
  • Phan Bình (1934-1987): Trung tướng, Cục trưởng Cục Quân báo, Bộ Tổng Tham mưu (1962-1987).
  • Nguyễn Như Văn (Tư Văn): Trung tướng, Tổng cục trưởng (1987-1994).
  • Đặng Vũ Chính: Trung tướng, Tổng cục trưởng (1994-2002).
  • Nguyễn Chí Vịnh: Trung tướng, Tổng cục trưởng (từ 2002 đến nay {4/2009
HỒ SƠ ĐẶC BIỆT
           Đại tướng Võ Nguyên Giáp, thượng Tướng Nguyễn Nam Khánh ...
                                        TỐ CÁO TỔNG CỤC 2 Bộ QP và  tướng LÊ ĐỨC ANH                                
Từ đầu năm nay, nhiều tướng lãnh và sĩ quan cao cấp Quân đội Nhân dân Việt Nam đã gửi thư cho Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản và Tổng bí thư Nông Đức Mạnh tố cáo những chuyện tày trời của Tổng cục 2 (cơ quan tình báo của quân đội) và qua đó, tướng Lê Đức Anh, là người đã biến Cục 2 trước đây thành Tổng cục. Phe cánh của ông Lê Đức Anh đã dùng TC2 làm công cụ để vu khống, triệt hạ hàng loạt cán bộ lãnh đạo. Tác giả các bức thư này đều yêu cầu lãnh đạo ĐCSVN phải làm rõ cái mà tướng Võ Nguyên Giáp gọi là « một vụ án siêu nghiêm trọng » này và phải xử lí nghiêm minh.
Gần đây nhất và đầy đủ nhất là lá thư đề ngày 17.6.2004 của Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh, nguyên phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐNDVN kiêm bí thư đảng uỷ Tổng cục chính trị, uỷ viên trung ương ĐCSVN ba khoá 5, 6 và 7 (1981-1996). Thư này đã được công bố trên nhiều mạng tiếng Việt từ cuối tháng 7, đôi khi với chú thích thận trọng « nói là của tướng Nguyễn Nam Khánh ». Diễn Đàn sau khi kiểm tra, có thể khẳng định đây đúng là của thượng tướng Khánh, và dư luận quân đội đều cho rằng những điều ông tố cáo là chính xác. Đáng chú ý là trong một thời gian dài, tướng Khánh được coi là « thân » với hai tướng Lê Đức Anh và Đoàn Khuê, vì ông được trao trách nhiệm « chính trị nội bộ » của quân đội trong khi hai phó chủ nhiệm TCCT khác là Đặng Vũ Hiệp và Lê Hai đã bị loại trừ.
Lá thư dài 13 trang khổ A4, gồm 4 phần. Hai phần đầu nhắc lại sơ lược « vụ Xiêm Rệp » (1983) trong đó tướng Anh đã tàn hại nhiều cán bộ Cam pu chia vì nghi oan họ có liên hệ với Pol Pot, « vụ Sáu Sứ » (1991) trong đó tướng Anh cài người tiếp cận tướng Võ Nguyên Giáp và tướng Trần Văn Trà rồi vu khống hai tướng này « âm mưu đảo chính », nhằm hạ uy tín hai ông trước thềm Đại hội 7 của ĐCSVN.
Hai phần chính tập trung nói về « vụ T4 » và đặt lại vấn đề « nghị định 96/CP » (thành lập TC2).
T4, một vụ án chính trị đặc biệt nghiêm trọng
“ T4 ”, tướng Khánh (cũng như tướng Giáp và các tướng lãnh khác) cho biết, là bí danh của một điệp viên do TC2 bịa đặt ra, một thứ James Bond 007 mà TC2 đã “ cài ” vào CIA, “ vào sâu lên cao ” nên nắm được “hồ sơ mật” hàng loạt cán bộ chính trị và quân sự cấp cao. Trong hơn 10 năm, tên “ đặc tình ” đã gửi về “ hàng trăm bản tin (không kể báo cáo miệng) ”. Tướng Khánh viết :
Nội dung vu khống chính trị là đưa tin CIA đã nắm được hoặc CIA đã tiếp cận được, đã cho người liên hệ, đã chỉ đạo các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải, Lê Khả Phiêu, Mai Chí Thọ, Trương Tấn Sang, Võ Trần Chí, Bùi Thiện Ngộ, Trương Vĩnh Trọng, Phạm Gia Khiêm, Võ Thị Thắng, Vũ Quốc Hùng, Nguyễn Khánh Toàn (Thứ trưởng Bộ Công An), Phan Diễn, Lê Văn Dũng, Phan Trung Kiên, Võ Viết Thanh, Đoàn Mạnh Giao.  
Vu khống cả một số tướng lĩnh trung thành và kiên cường chiến đấu trong kháng chiến, vu khống cả bản thân tôi.  
Các đồng chí đã có các bản tin của Tổng cục 2. Đề nghị các đồng chí đọc kỹ. Đối với tôi (Nguyễn Nam Khánh) và đồng chí Nguyễn Huy Chương, Uỷ viên Trung ương Đảng, đồng chí anh hùng Thượng tướng Nguyễn Chơn, Uỷ viên Trung ương Đảng, bản tin Tổng cục 2 đưa tin lên lãnh đạo cấp cao :
 'Từ trung tâm CIA cho hay : Trong mười ngày gần đây vợ chồng Trần Quốc Thuận, Võ thị Thắng đã tạo ra những liên kết trong bộ máy bảo vệ nền chuyên chính vô sản, đã gặp gỡ thân tình với một số cựu chiến binh thủ cựu trong Đảng, đó là Trung tướng Nguyễn Huy Chương, Thượng tướng Nam Khánh, Thượng tướng Nguyễn Chơn. Qua lại ăn cơm với tướng Khánh, tướng Chơn. Hai người này uý lạo mặt tư tưởng cho tướng Khánh, tướng Chơn, phát động một số phong trào kêu gọi cựu chiến binh Mặt trận cấp tiến. Đồng thời gây sức ép với ông Lê Khả Phiêu về một số đòi hỏi của cựu chiến binh. Nhân dịp kỉ niệm 210 năm ngày Quang Trung đại phá quân Thanh họp bàn bên lề kỉ niệm Quang Trung thành một buổi chất vấn về những yêu sách của cựu chiến binh khu vực miền Trung. Cặp vợ chồng Thuận-Thắng đang đà thuận tiện con đường đi sâu vào nội bộ Quân đội và Tổng bí thư Lê Khả Phiêu qua hai vị tướng này' (Bản tin ngày 7/2/1999) .
Tiếp đó, tướng Khánh trích lại một số bản tin của “ James Bond TC2” về một loạt nhân vật lãnh đạo :
Về đồng chí Võ Nguyên Giáp
Tổng cục 2 đưa tin : (chỉ trích một số).  
“ Sau Đại hội 8, CIA chỉ đạo nhóm Z (tức là nhóm Giáp) chủ trương xúc tiến vận động cả quan điểm, tư tưởng và tổ chức nhân sự, lợi dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để loại bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, tách tư tưởng Hồ Chí Minh với tư tưởng Mác-Lênin, tạo ra phong trào “dân tộc dân chủ” (bản tin số 49/96TR ngày 7/7 /1996) 
“ Ngày 12/7/1997, tại một địa điểm phía Bắc, đại diện CIA Mỹ đã phổ biến chủ trương của Mỹ và Pháp lôi kéo ông Võ Nguyên Giáp. Hiện nay theo yêu cầu của CIA thì ông Giáp vẫn đang ngấm ngầm hoạt động, nhất là sau khi có thông tin về cuộc gặp riêng giữa ông và Mac Namara trong cuộc hội thảo Những cơ hội bị bỏ lỡ. Tại cuộc gặp riêng này, mặc dù có phiên dịch tiếng Anh, nhưng hai bên đã không dùng tiếng Anh mà dùng tiếng Pháp (vì Mac Namara cũng biết tiếng Pháp). Mac Namara mời ông Giáp sang Mỹ dự hội thảo về Sự kiện Vịnh Bắc Bộ để phân biệt ai đúng ai sai. Ông Giáp đã trả lời : “ Thời cơ chưa chín muồi”. CIA phân tích : “ ông Giáp còn phải chuẩn bị dư luận dọn đường ở trong nước rồi mới đi Mỹ ”  (Bản tin số 167/TR ngày 17/7/1997)
 “ Ông Giáp chuẩn bị công bố cho học thuyết của mình (chỉ đạo ông [Trần Văn] Giàu viết cuốn sách Chủ nghĩa Hồ Chí Minh). Thông qua việc trả lời phóng viên Nhật Bản, ông Giáp đã đưa ra Chủ nghĩa Xã hội Nhân văn, kích động tư tưởng về một đợt sóng ngầm, bí mật thành lập Mặt trận cứu nguy dân tộc ” (Bản tin số 212/97/ TR ngày 10/9/97)
 Tổng cục 2 đưa tin về đồng chí Phạm Văn Đồng
 “ Sáng 05/9/97, Phạm Văn Đồng đã mời một số Uỷ viên Bộ Chính trị Trung ương khoá 4, khoá 5, yêu cầu những người này đứng ra vận động các Uỷ viên Bộ Chính trị, cán bộ đã về hưu chủ yếu là tướng lĩnh Quân đội yêu cầu thay đổi các đồng chí chủ chốt hiện nay. ” (Bản tin số 212/97/TR ngày 10/9/97)
Tin về đồng chí Phan Văn Khải
 “ Thời kỳ Phan Văn Khải làm Chủ Tịch Thành Phố, Charles Đức (là người được tên CIA Nguyễn Ngọc Huy, bí thư Đảng Tân Đại Việt đánh về miền Nam năm 1973 và phong cho làm Trung ương uỷ viên Phong trào Quốc gia Cấp tiến), đã dùng chuyên cơ đưa Phan Văn Khải đi tham quan các nước Đông Nam Á. Khi biết Phan Văn Khải được đề bạt ra Trung Ương, Charles Đức hết lòng cung phụng cho Phan Văn Khải. ” (Bản tin ngày 10/5/1999)
 Tin về đồng chí Trương Tấn Sang
 “CIA có nguồn tin từ quốc nội cho hay Bộ Chính trị sẽ loại trừ Trương Tấn Sang sau khi ông ta tổ chức thành công lễ kỷ niệm Sài Gòn 300 năm theo chủ nghĩa dân tộc. Hồ sơ của Tư Sang đã được CIA chuẩn bị cho một vị trí lãnh đạo của phe đối lập trong trường hợp ông ta ra khỏi Bộ Chính trị… CIA hy vọng về sự thành công của Tư Sang trong vai trò lãnh đạo phe đối lập...” (Bản tin ngày 25/12/98)
 “ Nhóm Trương Tấn Sang đang có kế hoạch tác động, móc nối lôi kéo để liên kết ông Ngô Xuân Lộc, Nguyễn Khánh Toàn và một số tướng lĩnh Quân đội và Công an, giao chúng nắm giữ các vị trí quan trọng trong Chính phủ Việt Nam từ địa phương đến Trung ương.” (Bản tin số 497 ngày 24/3/99)
 “ Các chuyên gia CIA nhận định một cuộc đảo chính có thể xảy ra vào tháng 7, tháng 8/1999 ở Việt Nam. Vai trò chủ chốt là Trương Tấn Sang và Trần Văn Tạo.
 “ Tư Sang, Tư Tạo tập trung thu phục phái tù Côn Đảo ở Thành phố Hồ Chí Minh. Phái này có khả năng trở thành phe phái hợp pháp đối lập trong Đảng Cộng sản, lấy địa bàn Sài Gòn làm căn cứ.  
“ Đã có sự liên kết mới giữa Ngô Xuân Lộc, Phạm Gia Khiêm, Nguyễn Khánh Toàn, Đoàn Mạnh Giao, Lê Vân Dũng, Phan Trung Kiên, Nguyễn Văn Rop. Việc đảo chính của phe nhóm này sẽ tập trung vào kỳ họp 2 Quốc hội. ” (Bản tin ngày 2/8/1999)
Có một sự mưu tính từ một số phe phái chính trị. Trong Đảng Việt Nam đang mưu tính một cuộc cải cách chính trị, đảo chính chính trị. Có những kế hoạch tuyệt mật trên cơ sở báo cáo của Quốc nội do CIA gửi Văn phòng An ninh, Tổng thống. Phe phái chính trị này dự tính sẽ lôi kéo cả ông Lê Khả Phiêu và Phan Văn Khải đứng về phía họ …Lúc bấy giờ Phan Văn Khải và Lê Khả Phiêu cũng phải theo họ vì không còn con đường nào khác. CIA đã chỉ đạo sẽ thực hiện kế hoạch. (Bản tin số 223 ngày 19/1/98)
 Tin về đồng chí Võ Viết Thanh
 “ Nguồn tin từ trong đội ngũ cấp cao cho hay ông Võ Viết Thanh đang thông qua một số nhân vật trung gian thân Mỹ để móc nối xin tị nạn chính trị trong sứ quán Mỹ hoặc đi ra nước ngoài.” (Bản tin ngày 7/2/1999)
 Tin về đồng chí Năm Xuân (Mai Chí Thọ)
 “ Charles Rey, Tổng lãnh sự Mỹ ở Thành Phố Hồ Chí Minh đến nhà riêng gặp anh Năm Xuân. Đây cũng là một hiện tượng không bình thường, ta chưa rõ nội dung cuộc gặp này. Những vụ án ta gọi là kinh tế, đàng sau đều có dính đến chính trị . (Bản tin ngày 5/10/1999)
 Tin về đồng chí Võ Thị Thắng
“ Nhằm áp đảo những người tố cáo mình, bà Võ Thị Thắng đã tìm cách kết thân với nhiều cán bộ chủ chốt ngành Công An, Nội Chính, Kiểm tra Đảng, Bảo vệ Chính trị Nội bộ. Bà Thắng là người tình của Nguyễn Khánh Toàn, thứ trưởng Bộ Công An. (Bản tin số 218 ngày 21/1/1999)
“ T4 tiết lộ Võ Thị Thắng trước đây đã được Phủ Đặc uỷ tháo răng hàm trên (răng cửa) để thay vào đó răng giả đặc biệt được sử dụng khi cảm thấy hiểm nguy, có thể cắn vỡ răng này sau khi dùng lưỡi đẩy rơi ra, là một liều thuốc độc cực mạnh có thể giúp các điệp viên tự sát. ” (Bản tin ngày 21/3/1999)
 Tin về đồng chí Vũ Quốc Hùng
 “CIA đã cho người móc nối Vũ Quốc Hùng vì thấy Vũ Quốc Hùng là Uỷ viên Trung ương Đảng, có thể được Nguyễn Văn An và một số lão thành giới thiệu vào Bộ Chính trị.  
Hùng đã cho người có quan hệ với CIA biết tin : Phương án định đồng chí Lê Khả Phiêu làm Tổng bí thư là không còn, thay vào đó chắc chắn là Nguyễn Văn An (CIA đã nắm được tin này)” (Bản tin số 351/97/TR ngày 17/12/1997)
 Tin về đồng chí Phan Diễn
 “ Phan Diễn có quan hệ phức tạp với một số người Hoa trong nhóm tình báo Trung Quốc. Đề nghị lãnh đạo thận trọng.  (Bản tin số 351/97/TR ngày 17/12/1997)
Tin về đồng chí Nông Đức Mạnh
Có tin đồn đồng chí Nông Đức Mạnh kết nghĩa với Minh Phụng. Tăng Minh phụng đã từng phục vụ cho đồng chí Mạnh và khi y bị bắt, đồng chí Mạnh tỏ ra không đồng tình. ” Bản tin số 352/97/TR ngày 17/12/1997)
 Tin về đồng chí Nguyễn Minh Triết
“ Đồng chí Triết vẫn tỏ ra tin tưởng Trần Bạch Đằng. Đồng chí Triết nói : anh Trần Bạch Đằng là Thủ trưởng của tôi mà còn bị nghi ngờ.” (Bản tin số 351/97/TR ngày 17/12/97)
 Tin về đồng chí Trần Tiến Cung (Thiếu tướng Tổng cục phó Tổng cục 2)
“ Trần Tiến Cung cũng là người quan hệ chặt chẽ với nhóm cơ hội chính trị xét lại. ” (Báo cáo số 1500/20/CB của Tổng cục 2)
Bản tin riêng về địch móc nối vào Viện 108
“ Ý đồ của CIA chống phá ta qua ngành y tế rất thâm độc và nguy hiểm. Chúng đã sớm móc nối vào viện 108, CIA đã móc nối được một số giáo sư, và giao cho “ Mặt trận dân chủ cấp tiến ” chỉ đạo nhóm này. Đặc biệt là khi chủ tịch Lê Đức Anh bị ốm, CIA đã chỉ đạo “ Mặt trận dân chủ cấp tiến ” ráo riết hoạt động chỉ đạo chặt chẽ lực lượng của chúng tại viện 108 trong quá trình điều trị cho chủ tịch Lê Đức Anh. Đáng chú ý gần đây, phát hiện được Phạm Song (nguyên Bộ trưởng Y Tế) có quan hệ với lực lượng cấp tiến. Tuần qua, hai lần Phạm Song gặp một tên trong ban lãnh đạo Mặt trận cấp tiến, tên này là bác sỹ lâu năm và là người của Giáp, y đang trực tiếp chỉ đạo lực lượng của Mặt trận dân chủ cấp tiến tại viện 108 trong việc điều trị cho chủ tịch Lê Đức Anh. Gần đây phát hiện chúng đã đặt thiết bị nghe trộm. Ngay trong xe của chủ tịch Lê Đức Anh đã có dấu hiệu đặt thiết bị nghe trộm. (Bản tin số 185/96/TR ngày 30/12/96)
Sau khi trích nguyên văn các bản tin phịa của TC2, Nguyễn Nam Khánh viết tiếp :
“ Các vấn đề của Tổng cục 2 còn nhiều như tổ chức thu thập tài liệu và theo dõi cán bộ cao cấp, tổ chức cơ sở làm tài liệu giả, vu cáo nhiều đồng chí, trước đây hoạt động cách mạng, là đã làm tay sai cho địch. Nguyễn Quang Vịnh (người của Tổng cục 2) đã bán kế hoạch phòng thủ bầu trời cho nước ngoài. Kế (người của Tổng cục 2) làm parabol để thu tiền bất hợp pháp; gian lận trong thuế giá trị gia tăng. Người của Tổng cục 2 còn đưa lên mạng Internet nói xấu cán bộ lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Đặc biệt, Tổng cục 2 đã sử dụng một số người phức tạp, cài cắm người vào các cơ quan Đảng, Nhà nước để lấy tin, tung tin, bịa đặt, lừa dối Đảng v.v…Cán bộ tình báo quân sự còn cấp giấy chứng minh quân báo cho tay chân Năm Cam hoạt động, và liên hệ chặt chẽ với tay chân Năm Cam (báo chí đã đưa tin nhưng bị ém).
“ Khó mà tưởng tượng được những hành động phạm pháp nghiêm trọng ấy lại diễn ra trong một cơ quan làm nhiệm vụ tình báo quân sự cấp chiến lược. Cơ quan tình báo mà lại bịa ra một cơ sở đặc tình “ ma ” để lừa dối, vu khống chính trị cán bộ cấp cao từ Tổng bí thư, uỷ viên Bộ Chính trị, Thủ tướng, Đại tướng, Thượng tướng, uỷ viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng… là phạm tội ngang với tội phản bội Tổ Quốc, phản bội Đảng. Qua những vụ việc nêu trên, những người lãnh đạo Tổng cục 2 như Vũ Chính, Nguyễn Chí Vịnh, đã phản bội truyền thống tốt đẹp của tình báo quân đội trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Không thể viện lý do trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ Tổng cục 2 có đóng góp và truyền thông tốt đẹp mà giảm tội cho Vũ Chính, Nguyễn Chí Vịnh, những người đã bịa ra cơ sở đặc tình “ ma” T4 và các vụ sai phạm khác.  
Những bản tin mà Tổng cục 2 đưa ra là nhằm vu khống chính trị, lừa dối, chia rẽ nội bộ Đảng, phá hoại Đảng, Nhà nước và quân đội, gây sự phân tâm, lũng đoạn tinh thần cán bộ đảng viên và nhân dân, vi phạm nghiêm trọng pháp luật, nguyên tắc kỷ luật đảng, tạo ra oan trái và đau khổ cho nhiều đồng chí. Với những bản tin đó mà tôi không thể trích dẫn hết, đã buộc cấp lãnh đạo cao nhất điều tra, thẩm tra, ít nhất là 10 vụ gây ra rất nhiều phức tạp.
Đó là hành động phá hoại đảng, phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa, phá hoại Tổ Quốc. Đó không phải là chuyện riêng nội bộ Tổng cục 2, nội bộ Bộ quốc phòng. Đó là vấn đề của toàn Đảng, của pháp luật, của chế độ xã hội chủ nghĩa, liên quan đến an ninh của Tổ Quốc, đến đại đoàn kết dân tộc. Đó chính là nguy cơ làm mất sự ổn định chính trị, đã gây hậu quả nghiêm trọng, và nếu không kiên quyết xử lý thì sẽ dẫn đến mất ổn định chính trị ngày càng tăng, như một ung nhọt làm tan rã Đảng và chế độ.
Còn nói rằng CIA đang tập trung đánh vào Tổng cục 2, cho nên cần giảm tội là một luận điệu nhằm bao che cho Tổng cục 2. Không thể đồng tình với luận điểm đó, và đó cũng là thủ đoạn của Tổng cục 2 đã làm trước đây khi bắt đầu phát hiện ra vụ T4. Luận điệu nói rằng công an đánh vào Tổng cục 2 cũng là luận điệu giả dối. Rõ ràng, tính chất của vụ T4 là thuộc về động cơ và quan điểm chính trị sai lầm, chứ không phải chỉ có thiếu sót trong công tác quản lý giáo dục cán bộ, nhân viên. Do đó, nếu chỉ thi hành kỷ luật ở mức cảnh cáo là không đúng.
Thư của tướng Võ Nguyên Giáp
« Thành tích » nói trên của TC2 đã được đại tướng Võ Nguyên Giáp tóm tắt như sau trong lá thư ngày 3.1.2004 gửi lãnh đạo ĐCS :
« Điển hình nghiêm trọng là vụ Tổng cục II thuộc Bộ Quốc Phòng. Những người đứng đầu và những phần tử xấu trong Tổng cục II đã có những hoạt động phá hoại Đảng nghiêm trọng một cách có hệ thống, có tổ chức kéo dài hàng chục năm đặt máy nghe trộm các đồng chí lãnh đạo và các cán bộ cấp cao, sử dụng những thông tin sai lệch để phá rối và chia rẽ nội bộ, cố tình gây ra bè phái trong Đảng, tạo ra chứng cứ giả để hãm hại những cán bộ tốt của Đảng, vi phạm nghiêm trọng đến điều lệ của Đảng, vi phạm pháp luật Nhà nước và kỷ luật của quân đội. Đương nhiên, trong Tổng cục vẫn có một số cán bộ tốt đã bị lợi dụng.
« Tôi đề nghị Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương kiên quyết kiểm tra và xử lý nghiêm minh, dứt điểm. Không cho phép duy trì mãi một tổ chức siêu đảng, siêu Chính phủ. Không thể để Tổng cục II tồn tại với quyền hạn quá rộng như Nghị quyết 96/CP đã cho phép, mà chỉ tập trung vào nhiệm vụ tình báo quân sự trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu như trước đây.
« Việc bảo đảm an ninh nội bộ sẽ giao cho Ban bảo vệ chính trị nội bộ  phụ trách dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị.
« Vấn đề chấn chỉnh Tổng cục II liên quan sâu sắc đến tình hình chung của toàn Đảng, không chỉ là vấn đề cụ thể của một cơ quan, cũng không phải là vấn đề riêng của Bộ Quốc phòng, mà là vấn đề có liên quan đến thành bại của công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đến việc giải quyết những vấn đề tồn tại trong Đảng từ trước tới nay.
« Đặc biệt nghiêm trọng là vụ Sáu Sứ diễn ra cuối khoá VI trước thềm Đại hội VII mà Hội nghị Trung ương 12 và 13 khoá VI đã bàn giao cho Trung ương khoá VII giải quyết.
« Nghiêm trọng hơn nữa là vụ T4 mà Bộ Chính trị khoá VIII đã bàn giao lại cho Bộ Chính trị khoá IX. Bộ Chính trị khoá IX đã chỉ đạo Ban điều tra liên ngành tiến hành điều tra và Bộ Chính trị đã kết luận. T4 là một vụ án chính trị “ siêu nghiêm trọng ” vi phạm kỷ luật của quân đội.
« Tôi đề nghị Hội nghị Trung ương 9 khoá IX xử lý kiên quyết, dứt điểm, nghiêm minh những vụ việc tồn đọng nói trên theo đúng điều lệ của Đảng, pháp luật của Nhà nước và kỷ luật của quân đội, dù người đó là ai, ở bất cứ cương vị nào. Và thông báo công khai cho Ban Chấp hành Trung ương khoá IX, cho các đồng chí uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Uỷ ban kiểm tra Trung ương các khoá trước.
«  Kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước đòi hỏi không được phép bao che, né tránh, làm qua loa, mà phải kiên quyết xử lý cả những kẻ bao che  ».
Trở lại Nghị định 96/CP
Trong phần 4 của lá thư nói ở đầu, thượng tướng Nguyễn Nam Khánh nhắc lại bối cảnh thành hình TC2 và sự lộng quyền của nó. Thời điểm bản lề là năm 1991, lúc lãnh đạo ĐCSVN vô cùng lo sợ bị sụp đổ. Bên ngoài thì tìm ô dù của Bắc Kinh với « giải pháp đỏ ở Cam pu chia » (xem Hồi kí của ông Trần Quang Cơ), bên trong thì tưởng tượng ra những « âm mưu lật đổ », « diễn biến hoà bình ». « Vụ Sáu Sứ » được phe cánh của tướng Lê Đức Anh nguỵ tạo ra, nhằm một công đôi việc. Một là né tránh những lời tối cao của những cán bộ lão thành Nam Bộ về quá khứ « cai đồn điền » và việc « khai gian ngày kết nạp Đảng » của tướng Anh, hai là tạo thế thượng phong cho bộ máy an ninh quân đội, lấn án bộ máy công an. Tướng Khánh phân tích :
« Trước đây Cục 2 là một cục tình báo quân sự. Sau cuộc “lập công” đầy tội ác với vụ Sáu Sứ và sau những tin giật gân, bịa đặt do cục 2 đưa ra để tự đề cao và để bày tỏ Cục 2 là “người trung thành bảo vệ lãnh đạo nhất”. Một đồng chí lãnh đạo cấp cao khoá 7 nói : “ Công an chả nắm được gì, chỉ có Cục 2 là nắm được tình hình ”. Lãnh đạo Cục 2 kiến nghị nâng Cục 2 thành Tổng cục 2. Do nhiều thủ thuật khôn khéo, pháp lệnh tình báo của thường vụ quốc hội ra đời. Tiếp đó là nghị định 96/CP của chính phủ. Trong khoá 7, đồng chí Lê Đức Anh được bầu vào Bộ Chính trị và sau đó được bầu làm Chủ tịch nước, phụ trách cả An ninh, Quốc phòng và Đối ngoại. Về lãnh đạo quân đội, lúc đầu có ý kiến đề xuất đồng chí Lê Đức Anh làm bí thư Đảng uỷ quân sự Trung ương. Nhưng Tổng cục Chính trị không đồng ý, vì không đúng với cơ chế Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành. Do đó, đồng chí Lê Đức Anh lãnh chức Phó bí thư thứ nhất Đảng uỷ quân sự trung ương. Đồng chí Đoàn Khuê, Bộ trưởng quốc phòng làm phó bí thư. Đồng chí Đỗ Mười, theo cơ chế, làm bí thư Đảng uỷ quân sự trung ương, nhưng trên thực tế, mọi việc chỉ đạo chung và cả điều hành cụ thể công tác quân sự, quốc phòng là đồng chí Lê Đức Anh. Được sự chỉ đạo của đồng chí Lê Đức Anh, chủ tịch nước, phó bí thư thứ nhất Đảng uỷ quân sự trung ương, Pháp lệnh tình báo và nghị định 96/CP đã được soạn thảo và chuyển qua quốc hội và chính phủ. Pháp lệnh tình báo do đồng chí Nông Đức Mạnh, thay mặt Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ký ngày 14/12/96. Nghị định 96/ CP do thủ tướng Võ Văn Kiệt ký ngày 11/9/1997. Đồng chí Võ Văn Kiệt sau này có nói: “ Tôi suy nghĩ mãi hơn 6 tháng mới ký nghị định 96/ CP ”.
 « Khoá 7, tôi là uỷ viên trung ương, uỷ viên Đảng uỷ quân sự trung ương, mà hoàn toàn không được biết về nghị định 96/ CP. Tôi và nhiều đồng chí thông cảm với đồng chí Võ Văn Kiệt. Có lẽ đồng chí Võ Văn Kiệt cũng cảm nhận một số điều không đúng của nghị định 96/ CP, nghị định về tình báo Quốc Phòng, cho nên đồng chí Võ Văn Kiệt thật sự có đắn đo. Tôi cũng thông cảm với đồng chí Nông Đức Mạnh, lúc đó là Chủ tịch quốc hội. »
Chỉ cần trích dẫn một vài điều khoản trong nghị định 96/ CP để thấy rõ văn bản này là nền tảng của mọi sự lộng quyền của TC2, cho nó tự do hoành hành và trở thành một “ nhà nước trong nhà nước ” :
“ Lực lượng tình báo thuộc Bộ quốc phòng là lực lượng chuyên trách về công tác tình báo chiến lược hoạt động trên các lĩnh vực tình báo chính trị, quốc phòng, An ninh, đối ngoại, kinh tế, khoa học kỹ thuật, công nghệ môi trường, văn hoá xã hội, thu thập và xử lý tin liên quan đến lợi ích quan trọng, sống còn của CHXHCNVN, góp phần tham mưu cho Đảng và Nhà nước hoạch định đường lối, sách lược đối nội, đối ngoại và các chủ trương, kế hoạch, biện pháp, quyết sách để thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược…” (điều 1 chương I).
Đối tượng và mục tiêu của lực lượng tình báo thuộc Bộ quốc phòng là những nơi có tin tức, tài liệu liên quan đến Nước CHXHCNVN. Trong đó đặc biệt chú ý đến các quốc gia, tổ chức và các cá nhân ở trong nước và ngoài nước có âm mưu hoạt động, đe doạ chống lại Đảng CSVN, Nhà Nước CHXHCNVN ” (Điều 11, chương II)  
“ Tổng cục tình báo thuộc Bộ Quốc phòng được biệt phái cán bộ đến các cơ quan Nhà nước và các tổ chức chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội, khoa học kỹ thuật ở trong nước, và ngoài nước có liên quan để thực hiện nhiệm vụ tình báo ” (Điều 15, chương II)
“ Tổng cục tình báo thuộc Bộ Quốc phòng được thiết lập kênh thông tin liên lạc đặc biệt với lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước ” (Điều 18, chương II).
Tổng cục tình báo thuộc Bộ Quốc phòng trong trường hợp cần thiết được sử dụng danh nghĩa và phương tiện làm việc, con dấu hoặc các giấy tờ giao dịch của các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, … (Điều 21, chương II).
Theo nhiều nguồn tin, lãnh đạo ĐCSVN đang tìm cách xoa dịu bằng những biện pháp nửa vời, nặng phần trình diễn (tiêu biểu là tần số xuất hiện của tướng Giáp trên TV). Một lần nữa, nhân danh “ ổn định ”, có lẽ một sự thoả hiệp khập khễnh sẽ được xếp đặt để mua thời gian.



















Thư của Đại tướng Võ Nguyên Giáp ( 3/1/2004)
Kính gửi :       Ban Chấp hành Trung ương
                        Đồng chí Tổng Bí thư, các đồng chí trong Bộ Chính trị,
                         Ban Bí thư và Uỷ ban Kiểm tra Trung ương
Thời gian qua, tôi vào miền Nam nên không dự được cuộc họp ngày 5 và 6 tháng 12 [2003] do Bộ Chính trị triệu tập.. Tôi đã đọc và nghiên cứu các bản dự thảo, báo cáo chuẩn bị trình Hội nghị Trung ương 9 khoá IX; : Báo cáo kiểm điểm nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX.; Báo cáo kiểm điểm giữa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội IX về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; Báo cáo tình hình thực hiện kết luận Hội nghị Trung ương 4 khoá IX về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng phí trong 2 năm qua.
Tôi nhận thấy, các dự thảo văn kiện nói trên được chuẩn bị tích cực, tiếp cận sát hơn tình hình thực hiện trong nước và thế giới, không chỉ nêu lên những thành tích mà còn nói rõ những tiềm năng chính được khai thác và những khuyết điểm tồn tại khá trầm trọng.
Nhìn chung, qua 3 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX, đất nước tiếp tục phát triển ổn định trong tình hình có nhiều khó khăng mới. Điều đó cho thấy công cuộc đổi mới đang phát triển đúng hướng. Tuy nhiên, tôi đồng ý với nhận định của dự thảo là nền kinh tế phát triển chưa bền vững, tốc độ tăng trưởng chưa tương xứng với mức tăng đầu tư và tiềm năng của đất nước ; mặt xã hội chuyển biến chậm, hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, lãng phí sa sút về đạo đức vẫn diễn ra phức tạp, có phần nghiêm trọng.
Tôi đề nghị, cần phải phân tích nguyên nhân của những mặt tồn tại, yếu kém, làm rõ hơn những vấn đề cần tập trung thực hiện bằng được trong hai năm còn lại. Cần làm rõ vì sao có nhiều Nghị quyết đúng, nhiều chủ trương đúng nhưng không được thực hiện hoặc thực hiện không có hiệu quả.
Sau đây, tôi xin phát biểu thêm một số ý kiến về kinh tế, về giáo dục và khoa học, về quốc phòng, an ninh và về xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

1. Về nhiệm vụ trung tâm là xây dựng kinh tế :

2. Về giáo dục và khoa học :

3. Về quốc phòng và an ninh :

Tôi đã có văn bản gửi Bộ Chính trị những ý kiến cụ thể đóng góp vào Nghị quyết Trung ương 8 khoá IX về “ Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới ” và đã nêu ý kiến trực tiếp với đồng chí Trần Đức Lương.
a) Tôi đã nhiều lần đề nghị chú trọng vấn đề lãnh hải, biển - đảo, nhưng cho đến nay vẫn chưa thấy có sự quan tâm. Phương hướng cho hai năm tới trong dự thảo báo cáo trình Hội nghị Trung ương 9 lần này cũng không đề cập tới.
Lãnh thổ nước ta không chỉ có vùng đất liền mà còn có cả vùng lãnh hải. Chúng ta có nhiệm vụ bảo đảm chủ quyền quốc gia không những trên bộ, trên không mà cả trên vùng lãnh hải. Vùng lãnh hải với thềm lục địa, đặc quyền kinh tế và an ninh quốc phòng có tầm quan trọng ngày càng lớn.
Các nước lớn trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương coi thế kỷ XXI là thế kỷ của biển và đại dương. Nhiều nước đã hoạch định chiến lược tổng thể về biển với những chủ trương và chính sách cụ thể liên quan đến chủ quyền lãnh hải, an ninh kinh tế và an ninh quốc phòng. Trung Quốc xác định : để mở rộng không gian sinh tồn, việc tiến ra biển khơi, khai thác nguồn tài nguyên biển liên quan đến khả năng tiếp tục phát triển và sự tồn vong của dân tộc Trung Hoa ; Trung Quốc đang ra sức tăng cường lực lượng hải quân và không quân để giành quyền kiểm soát trên không và trên biển ở khu vực Tây Thái Bình Dương và Biển Đông, và luôn khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa. Nhật Bản khẳng định quốc sách bảo đảm tuyến giao thông trên biển 1000 hải lý. Mỹ coi việc bảo đảm an toàn tuyến đường vận chuyển nối liền Tây Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương và Đại Tây Dương là một bộ phận quan trọng trong chiến lược địa lý – chính trị toàn cầu và chiến lược quốc gia về chủ quyền và an ninh trên biển.
Mục tiêu địa lý – chính trị phức tạp của các nước Châu Á - Thái Bình Dương gắn liền với cuộc đấu tranh giành giật chủ quyền lãnh hải và khai thác tài nguyên ở biển và đại dương sẽ tác động mạnh mẽ đến sự thay đổi cục diện chiến lược khu vực và toàn cầu trong thế kỷ XXI.
Tôi đề nghị cần sớm nghiên cứu xây dựng chiến lược toàn diện về lãnh hải của nước ta từ nay đến năm 2010 và 2020 trên nguyên tắc kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh. Đồng thời, có kế hoạch triển khai từng bước thiết thực và có hiệu quả.
Cần có một cơ quan Nhà nước mang tính liên ngành để lãnh đạo và điều phối chung các hoạt động kinh tế và quốc phòng trên vùng lãnh hải.
Trước mắt, cần tổ chức các đội tầu, thuyền đánh bắt cá và khai thác tài nguyên xa bờ kết hợp với lực lượng hải quân để giữ vững chủ quyền và an ninh trên vùng lãnh hải và quần đảo Trường Sa, không để cho các tầu thuyền nước ngoài xâm phạm.
b) Trong chiến lược phát triển các vùng lãnh thổ của đất nước, việc mở mang phát triển các vùng miền núi, nơi tập trung các đồng bào dân tộc ít người sinh sống, là vấn đề có tầm quan trọng trong chiến lược về chính trị, kinh tế và quốc phòng, an ninh.
Trong việc đầu tư phát triển các vùng miền nói chung Trung ương đã chú trọng, song cần chú trọng hơn nữa đến vùng căn cứ địa Việt Bắc (Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang).
Trước mắt, ở Cao Bằng, cần mở mang hệ thống giao thông (đường số 3, sân bay…) tạo điều kiện để phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế và cải thiện đời sống nhân dân, từng bước xây dựng tỉnh Cao Bằng – “ ngôi sao cách mạng của Việt Bắc ” nơi Bác Hồ đã từ nước ngoài trở về đây để trực tiếp lãnh đạo Cách mạng Việt Nam, thành một địa bàn mà nhân dân nhất là thanh niên có thể có đủ điều kiện thăm viếng, hơn nữa có thể tổ chức thành khu du lịch quan trọng đối với các khách trong nước và quốc tế.
Vấn đề này có ý nghĩa chiến lược về chính trị, kinh tế và cả về quốc phòng, an ninh của nước ta. Hoặc bên kia biên giới, nước bạn đã xây dựng tuyến đường cao tốc xuyên Á nối với Thái Lan, với Myanmar và Ấn Độ Dương, và gần đây trong chiến lược triển khai cuộc cách mạng quân sự mới đã tăng cường bố trí lực lượng quân sự ở các vùng biên giới.
4. Vấn đề chống tham nhũng, lãng phí :
5. Về nhiệm vụ then chốt : xây dựng và chỉnh đốn Đảng
6. Về công tác cán bộ :
7. Về công tác bảo vệ chính trị nội bộ
Dự thảo báo cáo đã nêu khuyết điểm : chậm kết luận rõ một sô trường hợp, một số vấn đề tồn tại cũ và mới phát sinh.
Đề nghị Hội nghị Trung ương lần này cần kiểm điểm nghiêm khắc vì sao tình trạng vi phạm nguyên tắc tổ chức và kỷ luật Đảng kéo dài ở cấp Trung ương mà Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị đã thấy rõ và đã có nghị Nghị quyết khẳng định phải giải quyết nhưng cho đến nay vẫn để tồn tại không giải quyết.
Điển hình nghiêm trọng là vụ Tổng cục II thuộc Bộ Quốc Phòng. Những người đứng đầu và những phần tử xấu trong Tổng cục II đã có những hoạt động phá hoại Đảng nghiêm trọng một cách có hệ thống, có tổ chức kéo dài hàng chục năm, đặt máy nghe trộm các đồng chí lãnh đạo và các cán bộ cấp cao, sử dụng những thông tin sai lệch để phá rối và chia rẽ nội bộ, cố tình gây ra bè phái trong Đảng, tạo ra chứng cứ giả để hãm hại những cán bộ tốt của Đảng, vi phạm nghiêm trọng đến điều lệ của Đảng, vi phạm pháp luật Nhà nước và kỷ luật của quân đội. Đương nhiên, trong Tổng cục vẫn có một số cán bộ tốt đã bị lợi dụng.
Tôi đề nghị Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương kiên quyết kiểm tra và xử lý nghiêm minh, dứt điểm. Không cho phép duy trì mãi một tổ chức siêu đảng, siêu Chính phủ. Không thể để Tổng cục II tồn tại với quyền hạn quá rộng như Nghị quyết 96/CP đã cho phép, mà chỉ tập trung vào nhiệm vụ tình báo quân sự trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu như trước đây.
Việc bảo đảm an ninh nội bộ sẽ giao cho Ban bảo vệ chính trị nội bộ phụ trách dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị.
Vấn đề chấn chỉnh Tổng cục II liên quan sâu sắc đến tình hình chung của toàn Đảng, không chỉ là vấn đề cụ thể của một cơ quan, cũng không phải là vấn đề riêng của Bộ Quốc phòng, mà là vấn đề có liên quan đến thành bại của công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đến việc giải quyết những vấn đề tồn tại trong Đảng từ trước tới nay.
Đặc biệt nghiêm trọng là vụ Sáu Sứ diễn ra cuối khoá VI trước thềm Đại hội VII mà Hội nghị Trung ương 12 và 13 khoá VI đã bàn giao cho Trung ương khoá VII giải quyết.
Nghiêm trọng hơn nữa là vụ T4 mà Bộ Chính trị khoá VIII đã bàn giao lại cho Bộ Chính trị khoá IX. Bộ Chính trị khoá IX đã chỉ đạo Ban điều tra liên ngành tiến hành điều tra và Bộ Chính trị đã kết luận T4 là một vụ án chính trị “ siêu nghiêm trọng ” vi phạm kỷ luật của quân đội.
Tôi đề nghị Hội nghị Trung ương 9 khoá IX xử lý kiên quyết, dứt điểm, nghiêm minh những vụ việc tồn đọng nói trên theo đúng điều lệ của Đảng, pháp luật của Nhà nước và kỷ luật của quân đội, dù người đó là ai, ở bất cứ cương vị nào. Và thông báo công khai cho Ban Chấp hành Trung ương khoá IX, cho các đồng chí uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Uỷ ban kiểm tra Trung ương các khoá trước.
Kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước đòi hỏi không được phép bao che, né tránh, làm qua loa, mà phải kiên quyết xử lý cả những kẻ bao che.
        Cuối thư, xin chúc Hội nghị Trung ương 9 với tinh thần trách nhiệm cao, nhìn thẳng vào sự thật, thấy rõ thành tựu đồng thời thấy rõ những mặt tồn tại yếu kém, đề ra được những chủ trương sát đúng, đưa nền kinh tế và xã hội nước ta phát triển nhanh hơn và vững hơn nữa, xây dựng và chỉnh đốn Đảng có hiệu quả rõ rệt, nhất là chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
Thắng lợi của Hội nghị Trung ương 9 lần này còn có ý nghĩa chuẩn bị một bước cho Đại hội X. Do vậy, mong rằng toàn thể các đồng chí uỷ viên Trung ương nhận rõ trách nhiệm lớn, luôn noi gương tự phê bình và phê bình của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đưa Hội nghị đến thành công lớn.
Chúc các đồng chí mạnh khoẻ.
Ngày 3 tháng 1 năm 2004           Thân ái                  Võ Nguyên Giáp
Thư của tướng Nguyễn Nam Khánh :
                                                                                      Hà Nội, ngày 17/6/2004
Kính gửi:  Ban Chấp hành Trung ương đảng
                  Đồng chí Tổng bí thư và các đồng chí uỷ viên  Bộ Chính trị, uỷ viên Ban Bí thư
                  Uỷ ban Kiểm tra Trung ương khoá 9
                  Đồng chí Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Trung ương khoá 7, khoá 8
Thưa các đồng chí,
Vụ T4 và các vấn đề của Tổng cục 2 vừa qua đã diễn ra rất nghiêm trọng từ vụ Sáu Sứ (Khoá 6) tiếp đến các vụ khác rất nghiêm trọng trong Khoá 7, Khoá 8 và Khoá 9 hiện nay nhưng chưa được làm rõ những sai phạm đó và xử lý nghiêm khắc một số lãnh đạo, chỉ huy Tổng cục 2. Tình hình ấy đang làm cho nhiều đảng viên lo lắng về sự trong sạch vững mạnh của Đảng ta.
Đầu tháng 7/2004, Trung ương sẽ họp lần thứ 10. Tôi thấy cần thiết viết thư gửi Ban chấp hành Trung ương, đồng chí Tổng bí thư, Bộ Chính trị, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương và Ban Bí thư về vấn đề T4 và các vấn đề của Tổng cục 2 vừa qua.
Vụ án T4 là một vụ án chính trị đặc biệt nghiêm trọng. Trước đây, trong kháng chiến chống Mỹ, Cục 2 đã đóng góp nhiều thành tích và có truyền thống tốt đẹp. Nhưng hai chục năm nay, có thể nói, từ khi bị khống chế và tự nguyện thực hiện những âm mưu vu khống, Cục 12 (Tổng cục 2) và các lãnh đạo Tổng cục 2, kể từ vụ Xiêm Riệp (năm 1983) và liên tiếp các vụ sau này, đã phạm những sai lầm rất nghiêm trọng và có hệ thống.
Tôi được các Đại hội Đảng bầu vào Ban Chấp hành Trung ương khoá 5, khoá 6, khoá 7, được Bộ Chính trị chỉ định làm phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị và sau đó được phân công theo dõi một số vấn đề bảo vệ chính trị nội bộ. Với trách nhiệm của mình, tôi được hiểu biết tình hình nói chung và tình hình Đảng bộ Quân đội nói riêng, đã tham gia sự lãnh đạo chung của Đảng và sự lãnh đạo tư tưởng, tổ chức, bảo vệ chính trị nội bộ Đảng Quân đội. Trước hết tôi xin trình bày những điều tôi đã biết với các đồng chí về Tổng cục 2, vụ T4 và các vụ án khác quan hệ đến Tổng cục 2 để góp phần làm sáng tỏ thêm sự thật và tính chất nguy hại có hệ thống và rất nghiêm trọng của các đồng chí lãnh đạo Tổng cục 2, kể từ khi đồng chí Tư Văn (1) và Vũ Chính (2), Nguyễn Chí Vịnh (3) nắm cương vị lãnh đạo Tổng cục.

I. Vụ Xiêm Riệp năm 1983

Nguyên nhân dẫn đến vụ Xiêm Riệp (năm 1983) là do cục 12 trước thuộc Cục 2 đã dựng tài liệu, chứng cứ không có thật, dựa theo tin địch, vu oan cho nhiều cán bộ bạn (4), dùng nhục hình, tra tấn, mớm cung, bức cung, gây ra những đau đớn oan ức cả tinh thần và thể xác cho cán bộ bạn, có đồng chí là cán bộ cao cấp của Đảng bạn phải tự sát, gây hậu quả cực kỳ nghiêm trọng. Vụ này, không phải là do một cán bộ (Mạc Lam) mà là từ lãnh đạo của cục 12 (Tư Văn, Vũ Chính). Hồi đó, đồng chí Lê Đức Anh làm trưởng đoàn chuyên gia tại CamPuChia. Do nhiều nguyên nhân, trong đó có ý kiến của đồng chí Lê Đức Anh, nên số cán bộ lãnh đạo của Cục 2 không bị xử lý mà chỉ thi hành kỉ luật đồng chí Mạc Lam, một trợ lý, và tập trung khuyết điểm vào đồng chí Hoá (5), Tư lệnh phó, Tham mưu trưởng 719 và đồng chí Thanh, Tư lệnh mặt trận 419.
Đến nay, nhiều đồng chí cán bộ cấp cao, các cán bộ tham gia công tác ở CamPuChia vẫn tiếp tục có ý kiến về vụ Xiêm Riệp, cả đối với các đồng chí lãnh đạo cục 2 và đồng chí Lê Đức Anh.
II. Vụ Sáu Sứ năm 1991 (vào cuối khoá 6, trước thềm đại hội 7)
Trước Đại hội 7, tâm trạng cán bộ, cả phía Nam và phía Bắc có nhiều lo lắng, băn khoăn về nhân sự cấp cao của Đảng, nhiều cán bộ không vừa lòng một số đồng chí trong Bộ Chính trị Khoá 6. Nhiều ý kiến muốn thay đổi một số Uỷ viên Bộ Chính trị. Trong đó dư luận tập trung không đồng tình đồng chí Lê Đức Anh. Đặc biệt thắc mắc đồng chí Lê Đức Anh mấy điểm :
·         Về lý lịch, đồng chí Anh khai xuất thân là công nhân là không đúng (6).
·         Về ngày vào Đảng đồng chí Lê Đức Anh khai không đúng (7).
·         Có một trận phục kích quân Pháp, trong đó có tên chủ đồn điền Pháp (đồn điền mà đồng chí Lê Đức Anh làm công chức) đồng chí Lê Đức Anh là người chỉ huy đại đội phục kích, không cho nổ súng. Nhờ đó bọn quân Pháp và cả tên chủ đồn diền (chủ cũ của đồng chí Lê Đức Anh) thoát chết
·         Thái độ đối với bà vợ trước, đồng chí Lê Đức Anh có thái độ xử sự không đúng tình nghĩa.
Như đồng chí Trường Chinh (được bầu làm Tổng bí thư sau khi đồng chí Lê Duẩn mất) nói : việc cán bộ trung cao cấp và cả nhân dân quan tâm đến nhân sự cao cấp của Đảng là điều bình thường, nhưng trước tình hình đó, Cục 2 được một sự chỉ đạo nào đó, đã tổ chức, dàn dựng ra vụ Sáu Sứ một cách bài bản, công phu, cấp xe, cấp tiền cho Sáu Sứ ra Hà Nội và trực tiếp chỉ đạo Sáu Sứ gặp một số lãnh đạo, cựu chiến binh, tìm cách khêu gợi và bí mật ghi âm, tất cả 16 cuốn.
Bộ Chính trị khoá 6 tổ chức cho chúng tôi nghe các băng ghi âm đó. Tôi nghe phần nhiều là lời Sáu Sứ và nhiều đoạn ồm ồm không nghe rõ.
Vụ này Cục 2 đã nguỵ tạo tài liệu, dựng chứng cứ giả, nặn thêm tình tiết, làm cho dư luận ngộ nhận là có thật, đánh lừa Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban chấp hành Trung Ương, thực chất là vu khống đồng chí Võ Nguyên Giáp, đồng chí TrầnVăn Trà, để thanh trừng nội bộ, hãm hại đồng chí. Nhiều đồng chí trung thực như đồng chí Nguyễn Đức Tâm, Mai Chí Thọ, Nguyễn Văn Linh, Võ Chí Công, Nguyễn Thanh Bình (8) …và nhiều đồng chí Uỷ viên Trung ương cũng bị những tin tức đó đánh lừa.
Sự vu khống ấy đã dẫn đến sự phân tâm trong Đảng, trong cán bộ Quân đội, ảnh hưởng rất xấu cho đến ngày nay, gây đau khổ, phẫn uất cho nhiều cán bộ cao cấp trong và ngoài Quân đội.

III. Vụ T 4 là một vụ án chính trị đặc biệt nghiêm trọng

1.      Tổng cục 2 đã làm một việc hết sức nghiêm trọng là bịa đặt ra một tên có bí danh là T4, đặc tình của Tổng cục 2 nằm trong CIA để đưa tin vu khống chính trị nhiều cán bộ lãnh đạo cấp cao và nhiều cán bộ khác của Đảng và Nhà nước với hàng trăm bản tin (không kể báo cáo miệng)
2.      Nội dung vu khống chính trị là đưa tin CIA đã nắm được hoặc CIA đã tiếp cận được, đã cho người liên hệ, đã chỉ đạo các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải, Lê Khả Phiêu, Mai Chi Thọ, Trương Tấn Sang, Võ Trần Chí, Bùi Thiện Ngộ, Trương Vĩnh Trọng, Phạm Gia Khiêm, Võ Thị Thắng, Vũ Quốc Hùng, Nguyễn Khánh Toàn (Thứ trưởng Bộ Công An), Phan Diễn, Lê Văn Dũng, Phan Trung Kiên, Võ Viết Thanh, Đoàn Mạnh Giao.
Vu khống cả một số tướng lĩnh trung thành và kiên cường chiến đấu trong kháng chiến, vu khống cả bản thân tôi.
Các đồng chí đã có các bản tin của Tổng cục 2. Đề nghị các đồng chí đọc kỹ. Đối với tôi (Nguyễn Nam Khánh) và đồng chí Nguyễn Huy Chương, Uỷ viên Trung ương Đảng, đồng chí anh hùng Thượng tướng Nguyễn Chơn, Uỷ viên Trung ương Đảng, bản tin Tổng cục 2 đưa tin lên lãnh đạo cấp cao :
Từ trung tâm CIA cho hay: Trong mười ngày gần đây vợ chồng Trần Quốc Thuận, Võ thị Thắng đã tạo ra những liên kết trong bộ máy bảo vệ nền chuyên chính vô sản, đã gặp gỡ thân tình với một số cựu chiến binh thủ cựu trong Đảng, đó là Trung tướng Nguyễn Huy Chương, Thượng tướng Nam Khánh, Thượng tướng Nguyễn Chơn. Qua lại ăn cơm vói tướng Khánh, tướng Chơn. Hai người này úy lạo mặt tư tưởng cho tướng Khánh, tướng Chơn, phát động một số phong trào kêu gọi cựu chiến binh Mặt trận cấp tiến. Đồng thời gây sức ép với ông Lê Khả Phiêu về một số đòi hỏi của cựu chiến binh. Nhân dịp kỉ niệm 210 năm ngày Quang Trung đại phá quân Thanh họp bàn bên lề kỉ niệm Quang Trung thành một buổi chất vấn về những yêu sách của cựu chiến binh khu vực miền Trung. Cặp vợ chồng Thuận- Thắng đang đà thuận tiện con đường đi sâu vào nội bộ Quân đội và Tổng bí thư Lê Khả Phiêu qua hai vị tướng này“ (Bản tin ngày 7/2/1999)

Về đồng chí Võ Nguyên Giáp

Tổng cục 2 đưa tin : (chỉ trích một số).
Sau Đại hội 8, CIA chỉ đạo nhóm Z (tức là nhóm Giáp) chủ trương xúc tiến vận động cả quan điểm, tư tưởng và tổ chức nhân sự, lợi dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để loại bỏ chủ nghĩa Mác- LêNin, tách tư tưởng Hồ Chí Minh với tư tưởng Mác – LêNin, tạo ra phong trào “dân tộc dân chủ”
(bản tin số 49/96TR ngày 7/7 /1996)
Ngày 12/7/1997, tại một địa điểm phía Bắc, đại diện CIA Mỹ đã phổ biến chủ trương của Mỹ và Pháp lôi kéo ông Võ Nguyên Giáp
Hiện nay theo yêu cầu của CIA thì ông Giáp vẫn đang ngấm ngầm hoạt động, nhất là sau khi có thông tin về cuộc gặp riêng giữa ông và Mac Namara trong cuộc hội thảo “Những cơ hội bị bỏ lỡ”, Tại cuộc gặp riêng này, mặc dù có phiên dịch tiếng Anh, nhưng hai bên đã không dùng tiếng Anh mà dùng tiếng Pháp (vì Mac Namara cũng biết tiếng Pháp). Mac Namara mời ông Giáp sang Mỹ dự hội thảo về “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ ” để phân biệt ai đúng ai sai. Ông Giáp đã trả lời: “Thời cơ chưa chín muồi
CIA phân tích: “ ông Giáp còn phải chuẩn bị dư luận dọn đường ở trong nước rồi mới đi Mỹ”
(Bản tin số 167/TR ngày 17 /7/1977)

Ông Giáp chuẩn bị công bố cho học thuyết của mình (chỉ đạo ông Giàu (9) viết cuốn sách Chủ nghĩa Hồ Chí Minh). Thông qua việc trả lời phóng viên Nhật Bản, ông Giáp đã đưa ra “Chủ nghĩa Xã hội Nhân văn”, kích động tư tưởng về một đợt sóng ngầm, bí mật thành lập “Mặt trận cứu nguy dân tộc”
(Bản tin số 212/97/ TR ngày 10/9/97)

Tổng cục 2 đưa tin về đồng chí Phạm Văn Đồng

Sáng 05/9/97, Phạm Văn Đồng đã mời một số Uỷ viên Bộ Chính trị Trung ương khoá 4, khoá 5, yêu cầu những người này đứng ra vận động các Uỷ viên Bộ Chính trị, cán bộ đã về hưu chủ yếu là tướng lĩnh Quân đội yêu cầu thay đổi các đồng chí chủ chốt hiện nay”.
(Bản tin số 212/97/TR ngày 10/9/97)

Tin về đồng chí Phan Văn Khải

Thời kỳ Phan Văn Khải làm Chủ Tịch Thành Phố (10), Charles Đức (11) (là người được tên CIA Nguyễn Ngọc Huy, bí thư Đảng Tân Đại Việt đánh về miền Nam năm 1973 và phong cho làm Trung ương uỷ viên Phong trào Quốc gia Cấp tiến), đã dùng chuyên cơ đưa Phan Văn Khải đi tham quan các nước Đông Nam Á. Khi biết Phan Văn Khải được đề bạt ra Trung Ương, Charles Đức hết lòng cung phụng cho Phan Văn Khải”.
(Bản tin ngày 10/5/1999)

Tin về đồng chí Trương Tấn Sang

CIA có nguồn tin từ quốc nội cho hay Bộ Chính trị sẽ loại trừ Trương Tấn Sang sau khi ông ta tổ chức thành công lễ kỷ niệm Sài Gòn 300 năm theo chủ nghĩa dân tộc. Hồ sơ của Tư Sang đã được CIA chuẩn bị cho một vị trí lãnh đạo của phe đối lập trong trường hợp ông ta ra khỏi Bộ Chính trị… CIA hy vọng về sự thành công của Tư Sang trong vai trò lãnh đạo phe đối lập…”
(Bản tin ngày 25/12/98)
Nhóm Trương Tấn Sang đang có kế hoạch tác động, móc nối lôi kéo để liên kết ông Ngô Xuân Lộc, Nguyễn Khánh Toàn và một số tướng lĩnh Quân đội và Công an, giao chúng nắm giữ các vị trí quan trọng trong Chính phủ Việt Nam từ địa phương đến Trung ương”.
(Bản tin số 497 ngày 24/3/99)
Các chuyên gia CIA nhận định một cuộc đảo chính có thể xảy ra vào tháng 7, tháng 8/1999 ở Việt Nam. Vai trò chủ chốt là Trương Tấn Sang và Trần Văn Tạo.
Tư Sang, Tư Tạo tập trung thu phục phái tù Côn Đảo ở Thành phố Hồ Chí Minh. Phái này có khả năng trở thành phe phái hợp pháp đối lập trong Đảng Cộng sản, lấy địa bàn Sài Gòn làm căn cứ”.
Đã có sự liên kết mới giữa Ngô Xuân Lộc, Phạm Gia Khiêm, Nguyễn Khánh Toàn, Đoàn Mạnh Giao, Lê Vân Dũng, Phan Trung Kiên, Nguyễn Văn Rop. Việc đảo chính của phe nhóm này sẽ tập trung vào kỳ họp 2 Quốc hội”.
(Bản tin ngày 2/8/1999)
Tối 06/1/99 có một cuộc họp do Tư Sang tổ chức, tham dự có Võ Trần Chí, ông Đặng (giám đốc sở công nghiệp). Ba Ngộ và một nhân vật bí hiểm… Nội dung cuộc họp: Bàn mọi cách bảo vệ vị trí Bí thư thành uỷ cho ông Sang, bằng mọi cách lôi kéo vây cánh để cô lập ông Lê Khả Phiêu và tiến tới thay ông Lê Khả Phiêu bằng một hội nghị bất thường vì ông Phiêu không ủng hộ Thành uỷ và ông Tư Sang.
Có một sự mưu tính từ một số phe phái chính trị. Trong Đảng Việt Nam đang mưu tính một cuộc cải cách chính trị, đảo chính chính trị. Có những kế hoạch tuyệt mật trên cơ sỏ báo cáo của Quốc nội do CIA gửi Văn phòng An ninh, Tổng thống. Phe phái chính trị này dự tính sẽ lôi kéo cả ông Lê Khả Phiêu và Phan Văn Khải đứng về phía họ …Lúc bấy giờ Phan Văn Khải và Lê Khả Phiêu cũng phải theo họ vì không còn con đường nào khác. CIA đã chỉ đạo sẽ thực hiện kế hoạch.”
(Bản tin số 223 ngày 19/1/98)

Tin về đồng chí Võ Viết Thanh

Nguồn tin từ trong đội ngũ cấp cao cho hay ông Võ Viết Thanh đang thông qua một số nhân vật trung gian thân Mỹ để móc nối xin tị nạn chính trị trong sứ quán Mỹ hoặc đi ra nước ngoài”.
(Bản tin ngày 7/2/1999)

Tin về đồng chí Năm Xuân (Mai Chí Thọ)

Charles Rey, Tổng lãnh sự Mỹ ở Thành Phố Hồ Chí Minh đến nhà riêng gặp anh Năm Xuân.
Đây cũng là một hiện tượng không bình thường, ta chưa rõ nội dung cuộc gặp này. Những vụ án ta gọi là kinh tế, đàng sau đều có dính đến chính trị”.
(Bản tin ngày 5/10/1999)
Từ vụ Sáu Sứ, Cục 2 (hồi đó cục 2 chưa được mang tên là Tổng cục 2) đã có báo cáo “Cảnh báo nhóm Mai Chí Thọ sẽ tiến hành đảo chính”

Tin về đồng chí Võ Thị Thắng

Nhằm áp đảo những người tố cáo mình, bà Võ Thị Thắng đã tìm cách kết thân với nhiều cán bộ chủ chốt ngành Công An, Nội Chính, Kiểm tra Đảng, Bảo vệ Chính trị Nội bộ.
Bà Thắng là người tình của Nguyễn Khánh Toàn, thứ trưởng Bộ Công An”.
(Bản tin số 218 ngày 21/1/1999)
T4 tiết lộ Võ Thị Thắng trước đây đã được Phủ Đặc uỷ tháo răng hàm trên (răng cửa) để thay vào đó răng giả đặc biệt được sử dụng khi cảm thấy hiểm nguy, có thể cắn vỡ răng này sau khi dùng lưỡi đẩy rơi ra, là một liều thuốc độc cực mạnh có thể giúp các điệp viên tự sát. ”
(Bản tin ngày 21/3/1999)

Tin về đồng chí Vũ Quốc Hùng

CIA đã cho ngươi móc nối Vũ Quốc Hùng vì thấy Vũ Quốc Hùng là Uỷ viên Trung ương Đảng, có thể được Nguyễn Văn An và một số lão thành giới thiệu vào Bộ Chính trị”.
Hùng đã cho người có quan hệ với CIA biết tin : Phương án định đồng chí Lê Khả Phieu làm Tổng bí thư là không còn, thay vào đó chắc chắn là Nguyễn Văn An (CIA đã nắm được tin này)”
(Bản tin số 351/97/TR ngày 17/12/1997)

Tin về đồng chí Phan Diễn

Phan Diễn có quan hệ phức tạp với một số người Hoa trong nhóm tình báo Trung Quốc. Đề nghị lãnh đạo thận trọng”.
(Bản tin số 351/97/TR ngày 17/12/1997)

Tin về đồng chí Nông Đức Mạnh

Có tin đồn đồng chí Nông Đức Mạnh kết nghĩa với Minh Phụng. Tăng Minh phụng đã từng phục vụ cho đồng chí Mạnh và khi y bị bắt, đồng chí Mạnh tỏ ra không đồng tình. ”
(Bản tin số 352/97/TR ngày 17/12/1997)
 “Đồng chí Triết vẫn tỏ ra tin tưởng Trần Bạch Dằng. Đồng chí Triết nói : anh Trần Bạch Đằng là Thủ trưởng của tôi mà còn bị nghi ngờ. ”
(Bản tin số 351/97/TR ngày 17/12/97)

Tin về đồng chí Trần Tiến Cung (Thiếu tướng Tổng cục phó Tổng cục 2)

Trần Tiến Cung cũng là người quan hệ chặt chẽ với nhóm cơ hội chính trị xét lại”
(Báo cáo số 1500/20/CB của Tổng cục 2)

Bản tin riêng về địch móc nối vào Viện 108

Ý đồ của CIA chống phá ta qua ngành y tế rất thâm độc và nguy hiểm. Chúng đã sớm móc nối vào viện 108, CIA đã móc nối được một số giáo sư, và giao cho “ Mặt trận dân chủ cấp tiến” chỉ đạo nhóm này. Đặc biệt là khi chủ tịch Lê Đức Anh bị ốm, CIA đã chỉ đạo Mặt trận dân chủ cấp tiến ráo riết hoạt động chỉ đạo chặt chẽ lực lượng của chúng tại viện 108 trong quá trình điều trị cho chủ tịch Lê Đức Anh. Đáng chú ý gần đây, phát hiện được Phạm Song (nguyên Bộ trưởng Y Tế) có quan hệ với lực lượng cấp tiến. Tuần qua, hai lần Phạm Song gặp một tên trong ban lãnh đạo Mặt trận cấp tiến, tên này là bác sỹ lâu năm và là người của Giáp, y đang trực tiếp chỉ đạo lực lượng của Mặt trận dân chủ cấp tiến tại viện 108 trong việc điều trị cho chủ tịch Lê Đức Anh. Gần đây phát hiện chúng đã đặt thiết bị nghe trộm. Ngay trong xe của chủ tịch Lê Đức Anh đã có dấu hiệu đặt thiết bị nghe trộm.
(Bản tin số 185/96/TR ngày 30/12/96)
* * *
Các vấn đề của Tổng cục 2 còn nhiều như tổ chức thu thập tài liệu và theo dõi cán bộ cao cấp, tổ chức cơ sở làm tài liệu giả, vu cáo nhiều đồng chí, trước đây hoạt động cách mạng, là đã làm tay sai cho địch. Nguyễn Quang Vịnh (người của Tổng cục 2) đã bán kế hoạch phòng thủ bầu trời cho nước ngoài. Kế (người của Tổng cục 2) làm parabol để thu tiền bất hợp pháp ; gian lận trong thuế giá trị gia tăng. Người của Tổng cục 2 còn đưa lên mạng Internet nói xấu cán bộ lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Đặc biệt, Tổng cục 2 đã sử dụng một số người phức tạp, cài cắm người vào các cơ quan Đảng, Nhà nước để lấy tin, tung tin, bịa đặt, lừa dối Đảng v. v…Cán bộ tình báo quân sự còn cấp giấy chứng minh quân báo cho tay chân Năm Cam hoạt động, và liên hệ chặt chẽ với tay chân Năm Cam (báo chí đã đưa tin nhưng bị ém).
Khó mà tưởng tượng được những hành động phạm pháp nghiêm trọng ấy lại diễn ra trong một cơ quan làm nhiệm vụ tình báo quân sự cấp chiến lược. Cơ quan tình báo mà lại bịa ra một cơ sở đặc tình “ma” để lừa dối, vu khống chính trị cán bộ cấp cao từ Tổng bí thư, uỷ viên Bộ Chính trị, Thủ tướng, Đại tướng, Thượng tướng, uỷ viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng… là phạm tội ngang với tội phản bội Tổ Quốc, phản bội Đảng. Qua những vụ việc nêu trên, những người lãnh đạo Tổng cục 2 như Vũ Chính, Nguyễn Chí Vịnh, đã phản bội truyền thống tốt đẹp của tình báo quân đội trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Không thể viện lý do trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ Tổng cục 2 có đóng góp và truyền thông tốt đẹp mà giảm tội cho Vũ Chính, Nguyễn Chí Vịnh, những người đã bịa ra cơ sở đặc tình “ ma” T4 và các vụ sai phạm khác.
Những bản tin mà Tổng cục 2 đưa ra là nhằm vu khống chính trị, lừa dối, chia rẽ nội bộ Đảng, phá hoại Đảng, Nhà nước và quân đội, gây sự phân tâm, lũng đoạn tinh thần cán bộ đảng viên và nhân dân, vi phạm nghiêm trọng pháp luật, nguyên tắc kỷ luật đảng, tạo ra oan trái và đau khổ cho nhiều đồng chí. Với những bản tin đó mà tôi không thể trích dẫn hết, đã buộc cấp lãnh đạo cao nhất điều tra, thẩm tra, ít nhất là 10 vụ gây ra rất nhiều phức tạp.
Đó là hành động phá hoại đảng, phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa, phá hoại Tổ Quốc. Đó không phải là chuyện riêng nội bộ Tổng cục 2, nội bộ Bộ quốc phòng. Đó là vấn đề của toàn Đảng, của pháp luật, của chế độ xã hội chủ nghĩa, liên quan đến an ninh của Tổ Quốc, đến đại đoàn kết dân tộc. Đó chính là nguy cơ làm mất sự ổn định chính trị, đã gây hậu quả nghiêm trọng, và nếu không kiên quyết xử lý thì sẽ dẫn đến mất ổn định chính trị ngày càng tăng, như một ung nhọt làm tan rã Đảng và chế độ.
Còn nói rằng CIA đang tập trung đánh vào Tổng cục 2, cho nên cần giảm tội là một luận điệu nhằm bao che cho Tổng cục 2. Không thể đồng tình với luận điểm đó, và đó cũng là thủ đoạn của Tổng cục 2 đã làm trước đây khi bắt đầu phát hiện ra vụ T4. Luận điệu nói rằng công an đánh vào Tổng cục 2 cũng là luận điệu giả dối. Rõ ràng, tính chất của vụ T4 là thuộc là thuộc về động cơ và quan điểm chính trị sai lầm, chứ không phải chỉ có thiếu xót trong công tác quản lý giáo dục cán bộ, nhân viên. Do đó, nếu chỉ thi hành kỷ luật ở mức cảnh cáo là không đúng.

IV. Nghị định 96/CP và sự lộng quyền của Tổng cục 2.

Trước đây Cục 2 là một cục tình báo quân sự. Sau cuộc “ lập công” đầy tội ác với vụ Sáu Sứ và sau những tin giật gân, bịa đặt do cục 2 đưa ra để tự đề cao và để bày tỏ Cục 2 là “người trung thành bảo vệ lãnh đạo nhất”. Một đồng chí lãnh đạo cấp cao khoá 7 nói : “Công an chả nắm được gì, chỉ có Cục 2 là nắm được tình hình”. Lãnh đạo Cục 2 kiến nghị nâng Cục 2 thành Tổng cục 2. Do nhiều thủ thuật khôn khéo, pháp lệnh tình báo của thường vụ quốc hội ra đời. Tiếp đó là nghị định 96/CP của chính phủ. Trong khoá 7, đồng chí Lê Đức Anh được bầu vào Bộ Chính trị và sau đó được bầu làm Chủ tịch nước, phụ trách cả An ninh, Quốc phòng và Đối ngoại. Về lãnh đạo quân đội, lúc đầu có ý kiến đề xuất đồng chí Lê Đức Anh làm bí thư Đảng uỷ quân sự Trung ương. Nhưng Tổng cục Chính trị không đồng ý, vì không đúng với cơ chế Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành. Do đó, đồng chí Lê Đức Anh lãnh chức Phó bí thư thứ nhất Đảng uỷ quân sự trung ương. Đồng chí Đoàn Khuê, Bộ trưởng quốc phòng làm phó bí thư. Đồng chí Đỗ Mười, theo cơ chế, làm bí thư Đảng uỷ quân sự trung ương, nhưng trên thực tế, mọi việc chỉ đạo chung và cả điều hành cụ thể công tác quân sự, quốc phòng là đồng chí Lê Đức Anh. Được sự chỉ đạo của đồng chí Lê Đức Anh, chủ tịch nước, phó bí thư thứ nhất Đảng uỷ quân sự trung ương, Pháp lệnh tình báo và nghị định 96/CP đã được soạn thảo và chuyển qua quốc hội và chính phủ. Pháp lệnh tình báo do đồng chí Nông Đức Mạnh, thay mặt Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ký ngày 14/12/96. Nghị định 96/ CP do thủ tướng Võ Văn Kiệt ký ngày 11/9/1997. Đồng chí Võ Văn Kiệt sau này có nói: “Tôi suy nghĩ mãi hơn 6 tháng mới ký nghị định 96/ CP ”.
Khoá 7, tôi là uỷ viên trung ương, uỷ viên Đảng uỷ quân sự trung ương, mà hoàn toàn không được biết về nghị định 96/ CP. Tôi và nhiều đồng chí thông cảm với đồng chí Võ Văn Kiệt. Có lẽ đồng chí Võ Văn Kiệt cũng cảm nhận một số điều không đúng của nghị định 96/ CP, nghị định về tình báo Quốc Phòng, cho nên đồng chí Võ Văn Kiệt thật sự có đắn đo. Tôi cũng thông cảm với đồng chí Nông Đức Mạnh, lúc đó là Chủ tịch quốc hội. Dưới đây, tôi trình bày một số ý kiến về pháp lệnh tình báo và nghị định 96/CP về tình báo quốc phòng, chủ yếu là về nghị định 96/ CP :

Điều 2, chương 1 của pháp lệnh tình báo xác định :

Lực lượng tình báo Việt nam là một trong những lực lượng trọng yếu, tin cậy của Đảng và nhà nước, đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của chủ tịch nước, sự quản lý thống nhất của Chính phủ (gọi tắt là lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước)”

Điều 14, chương III quy định :

Thủ trưởng tình báo thuộc quốc phòng trực tiếp điều hành công tác của lực lượng Tình báo Bộ Quốc phòng, chịu trách nhiệm trước Bộ quốc phòng và lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước về mọi mặt trong lĩnh vực công tác của lực lượng tình báo trực thuộc”
Còn nghị định 96/ CP của Thủ tướng chính phủ ở điều I chương I ghi :
Lực lượng tình báo thuộc Bộ quốc phòng là lực lượng chuyên trách về công tác tình báo chiến lược hoạt động trên các lĩnh vực tình báo chính trị, quốc phòng, An ninh, đối ngoại, kinh tế, khoa học kỹ thuật, công nghệ môi trường, văn hoá xã hội, thu thập và xử lý tin liên quan đến lợi ích quan trọng, sống còn của CHXHCNVN, góp phần tham mưu cho Đảng và Nhà nước hoạch định đường lối, sách lược đối nội, đối ngoại và các chủ trương, kế hoạch, biện pháp, quyết sách để thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược…”

Điều 11, chương 2 của nghị định 96/ CP xác định :

Đối tượng và mục tiêu của lực lượng tình báo thuộc Bộ quốc phòng là những nơi có tin tức, tài liệu liên quan đến Nước CHXHCNVN. Trong đó đặc biệt chú ý đến các quốc gia, tổ chức và các cá nhân ở trong nước và ngoài nước có âm mưu hoạt động, đe doạ chống lại Đảng CSVN, Nhà Nước CHXHCNVN”

Điều 11, chương 2 của nghị định 96/CP lại giao nhiệm vụ và các quyền hạn :

Tổng cục Tình báo thuộc Bộ Quốc phòng trình lên thường vụ Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhiệm vụ và kế hoạch trọng yếu dài hạn và hàng năm của công tác tình báo chiến lược”

Điều 15, chương 2 :

Tổng cục tình báo thuộc Bộ Quốc phòng được biệt phái cán bộ đến các cơ quan Nhà nước và các tổ chức chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội, khoa học kỹ thuật ở trong nước, và ngoài nước có liên quan để thực hiện nhiệm vụ tình báo”

Điều 18, chương 2 :

Tổng cục tình báo thuộc Bộ Quốc phòng được thiết lập kênh thông tin liên lạc đặc biệt với lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước”

Điều 20, chương 2 :

Tổng cục tình báo được sử dụng các biện pháp tình báo, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ, vũ khí và công cụ phục vụ cho nhiệm vụ đặc biệt của tình báo”

Điều 21, chương 2 :

Tổng cục tình báo thuộc Bộ Quốc phòng trong trường hợp cần thiết được sử dụng danh nghĩa và phương tiện làm việc, con dấu hoặc các giấy tờ giao dịch của các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, …”
Trong việc quy định các mối quan hệ, tuy có nói về mối quan hệ chỉ huy của Bộ Quốc phòng với Tổng cục tình báo, nhưng điều 30 chương 4 lại nói:
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng có trách nhiệm giúp Thủ tướng Chính phủ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với lực lượng tình báo thuộc Bộ Quốc phòng”

Điều 30, chương 4 :

Tổng cục trưởng Tổng cục tình báo chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và lãnh đạo cấp cao của Đảng và nhà nước về mọi lĩnh vực công tác của lực lượng tình báo thuộc Bộ Quốc phòng”
Còn về tài chính, ngân sách thì như thế nào ?

Điều 8, chương I quy định :

Kinh phí đặc biệt ngoài ngân sách Quốc phòng do Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đề nghị Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và Bộ tài chính cấp trực tiếp cho Tổng cục tình báo thuộc Bộ Quốc phòng”
Qua nội dung của nghị định 96/CP có thể nhận ra điều gì ?
Trong cơ chế nước ta, ai cũng hiểu pháp lệnh thường không phải do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội soạn thảo. Nghị định cũng thường không phải do Văn phòng Thủ tướng soạn thảo mà do “ cơ quan chủ quản” đề tài ấy soạn ra.
Nhưng kẻ soạn ra pháp lệnh Tình báo và Nghị định 96/ CP đã khéo léo, bắt đầu từ chỗ xác định
Lực lượng tình báo Việt nam là một trong những lực lượng trọng yếu, tin cậy của Đảng và nhà nước, đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của chủ tịch nước, sự quản lý thống nhất của Chính phủ (gọi tắt là lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước)”
Xác định như vậy nghe ra thì rất lập trường, đề cao sự lãnh đạo tuyệt đối, tập trung, thống nhất về mọi mặt của Đảng. Nhưng giả định nếu ta đưa ra một khái niệm tương tự : “Lực lượng hậu cần kỹ thuật (hoặc lực lượng pháo binh, lực lượng phòng không khong quân…) đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của chủ tịch nước, sự quản lý thống nhất của Chính phủ” thì nghe có được không ?
Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam nói chung đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của chủ tịch nước, sự quản lý thống nhất của Chính phủ là hoàn toàn đúng. Thế nhưng lực lượng vũ trang nhân dân nói chung và từng bộ phận của lực lượng ấy là hai chủ thể khác nhau trước luật pháp. Tổng cục 2 là một bộ phận của Quân đội nhân dân, nhưng nó không phải là toàn thể Quân đội nhân dân. Quân đội nhân dân Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của Chủ tịch nước, sự quản lý thống nhất của Chính phủ, nhưng khi xác định cơ chế và các mối quan hệ lãnh đạo chỉ huy, của từng bộ phận của Quân đội nhân dân, thì xác định như vậy là không đúng, không chuẩn, không rõ ràng. Những kẻ soạn thảo đã cố tình đưa ra một khái niệm lẫn lộn, đánh đồng Bộ Quốc phòng và Tổng cục tình báo, đánh đồng sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ đối với Bộ quốc phòng và Tông cục tình báo. Sự pháp quy đó đã bị lợi dụng dẫn đến một sự hiểu lầm: “Tổng cục tình báo cũng đứng dưới sự lãnh đạo tuyệt đối trực tiếp về mọi mặt của lãnh đạo cấp cao, ngang hàng với Bộ quốc phòng”. Đó là một kẽ hở rất lớn dẫn đến sự lộng quyền.
Để cụ thể hoá pháp lệnh tình báo, những người soạn thảo đã đưa vào nghị định của Thủ tướng Chính phủ những quyền hạn rất rộng cho Tổng cục tình báo Bộ quốc phòng, đặc biệt là ở điều I chương 1.
An ninh Quốc gia là một lĩnh vực rộng lớn và tổng hợp, cho nên công tác tình báo để đảm bảo an ninh quốc gia ở bất kỳ nước nào cũng có nội dung rộng lớn bao gồm toàn diện các lĩnh vực: tình báo chính trị, tình báo tài chính, tình báo thương mại, tình báo khoa học công nghệ, tình báo thông tin, tình báo văn hoá, tình báo ngoại giao, tình báo bảo đảm an ninh nội bộ, công tác phản gián và sử dụng các hình thức tình báo để thực hiện từng nhiệm vụ cụ thể.
Để thực hiện nhiệm vụ tình báo chiến lược tổng hợp đó, mỗi cơ quan, mỗi ngành có chức năng, nhiệm vụ, đối tượng cụ thể, và riêng của mình. Nhưng điều 1 Chương I xác định:
Lực lượng tình báo thuộc Bộ quốc phòng là lực lượng chuyên trách về công tác tình báo chiến lược hoạt động trên các lĩnh vực tình báo chính trị, quốc phòng, An ninh, đối ngoại, kinh tế, khoa học kỹ thuật, công nghệ môi trường, văn hoá xã hội…” là không đúng. Tình báo Bộ quốc phòng làm nhiệm vụ tình báo quân sự, thực hiện các công tác tình báo để đảm bảo các nhiệm vụ của Bộ quốc phòng. Đương nhiên nhiệm vụ Bộ quốc phòng có liên quan đến các ngành, các lĩnh vực, nhưng tình báo Bộ quốc phòng không phải là toàn bộ các công tác An ninh Quốc gia.
Tình báo quân sự cần có sự kết hợp chặt chẽ với tình báo các lĩnh vực khác, nhưng nó không được bao trùm, nằm lên trên, ôm đồm, mở rộng ra toàn diện các lĩnh vực. Nó chỉ là và phải là một lực lượng Tình báo chiến lược chuyên trách về quân sự và các nhiệm vụ của Bộ Quốc phòng.Xin nhấn mạnh chữ một. Phải xác định đúng khung phạm vi chức năng nhiệm vụ của nó.
Từ nhiệm vụ quá rộng bao trùm lên toàn diện các lĩnh vực, cho nên điều 11, chương 2 xác định đối tượng của Tình báo quân sự không chặt chẽ :
Đối tượng và mục tiêu của lực lượng Tình báo thuộc Bộ Quốc phòng là những nơi có tin tức, có tài liệu liên quan đến nước CHXHCNVN, trong đó đặc biệt chú ý đén các Quốc gia, tổ chức và cá nhân ở trong nước và ngoài nước có âm mưu hoạt đông đe doạ, chống lại Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà Nước CHXHCNVN”. Với điều 11, chương 2 đó thì những nơi mà Tổng cục 2 cho rằng có tin tức, tài liệu liên quan đến nước CHXHCNVN và “đặc biệt chú ý đến các tổ chức và cá nhân trong nước hoạt động đe doạ chống lại Đảng, Nhà Nước” là Tổng cục có quyền sục vào, có quyền đưa tin, có quyền gài người vào tất cả các địa phương (không trừ huyện nào, tỉnh nào, không trừ một cơ quan nào của Đảng, Nhà Nước, các tổ chức chính trị, xã hội, văn hoá, kinh tế, v. v., như Tổng cục 2 đã làm lâu nay.
Cũng từ đó Nghị định 96/CP quy định “Tổng cục Tình báo thuộc Bộ Quốc phòng trình lên Thường vụ Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng nhiệm vụ và các kế hoạch trọng yếu dài hạn và hàng năm của công tác Tình báo chiến lược”.
Xin lưu ý: cụm từ “của công tác tình báo chiến lược” nghĩa là công tác Tình báo chiến lược nói chung bao trùm. Thế Bộ Công An làm gì ? Thế Đảng uỷ quân sự Trung ương làm gì ? Đề ra như thế là cho Tổng cục 2 qua mặt cả Đảng uỷ quân sự Trung ương, lên trên cả bộ Công An.
Hơn nữa, Nghị định 96/CP xác định : Tổng cục Tình báo Bộ Quốc phòng dược thiết lập kênh thông tin liên lạc với lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà Nước. ” “Tổng cục Tình báo thuộc Bộ Quốc phòng trong trường hợp cần thiết được sử dụng danh nghĩa và phương tiện làm việc, con dấu các giấy tờ giao dịch của cơ quan Nhà Nước, tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội…”
Ngân sách Quốc phòng được Nhà Nước giao cho Bộ Quốc phòng mà Tổng cục 2 là một cơ quan trực thuộc Bộ Quốc phòng. VậyTổng cục 2 có nhiệm vụ gì đặc biệt ngoài Quốc phòng mà Bộ trưởng Quốc phòng phải đề nghị Thủ tướng phê duyệt và Bộ Tài chính trực tiếp cấp? Điều 20, chương 14 và nhiều điều khác đã để lộ ý định của người soạn thảo đưa ra pháp lệnh này là : Biến Tổng cục 2 thành một cơ quan Tình báo (như kiểu CIA của Mỹ), trùm lên cả cơ quan Tình báo của Bộ Công An, Ban bảo vệ chính trị nội bộ, Cục bảo vệ, Tổng cục chính trị, làm cả đối ngoại và nội bộ.
Công tác bảo vệ nội bộ là do Ban bảo vệ chính trị phụ trách. Công tác An ninh bao gồm cả công tác phản gián phải tập trung vào Bộ Công An, tất nhiên có sự kết hợp giữa thế trận An ninh nhân dân và thế trận Quốc phòng toàn dân. Nhưng không thể tập trung quyền hạn vào Tổng cục 2, để Tổng cục 2 bao trùm lên trên.
Lợi dụng Nghị định 96/CP, Tổng cục 2 đã có sự lộng quỳên nghiêm trọng, sự thao túng nghiêm trọng, phá hoại dân chủ và phá hoại đoàn kết nôi bộ, gây chia rẽ và bè phái rất nghiêm trọng trong Đảng. Tổng cục 2 muốn vu khống ai thì vu khống, muốn trừng trị ai thì bày chuyện trừng trị, muốn gài người vào cơ quan nào thì gài, tổ chức kinh doanh tràn lan, lạm dụng các hoạt động gọi là Tình báo để tiêu tiền, thậm chí tạo ra “ cơ sở đặc tình” không có thật để tiêu tiền (“tiền cho T4 mà”, ít nhất là 81. 000 đô la, đó là mới phát hiện, còn chưa kể kiểm tra hết được).
Qua việc nắm tình hình khi tôi làm nhiệm vụ, tôi thấy mấy điểm :
1.      Quyền hạn Tổng cục 2 quá rộng.
2.      Người Tổng cục 2 sử dụng có cả bọn xấu và có cả các phần tử địch xen vào.
3.      Nguyên tắc, thủ đoạn, nề nếp làm việc không đúng quy chế, quy định, tin từc không có phối kiểm, đưa gửi tràn lan. Trong công tác Đảng uỷ thì không thực hiện đúng nguyên tắc lãnh đạo tập thể. Thủ trưởng Tổng cục độc đoán, chuyên quyền.
4.      Người của Tổng cục 2 cũng đưa lên mạng nói xấu lãnh đạo Đảng.
5.      Tài chính bất minh.
Vì vậy tôi đề nghị :
·         Phải kiểm tra toàn diện Tổng cục 2 cả về chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động, nề nếp làm việc, hệ lực lượng bao gồm lực lượng cài cắm ở các cơ quan và tài chính.
·         Chấm dứt việc cài người của Tổng cục 2 vào các cơ quan Đảng, Nhà Nước.
·         Phải thật sự chấn chỉnh Tổng cục 2 cả tổ chức, cán bộ, lực lượng, nguyên tắc làm việc, cả chính quyền và Đảng, tài chính, cơ sở vật chất. Không thể để lại ở Tổng cục 2 những cán bộ lãnh đạo vu khống chính trị đã thoái hoá biến chất.
·         Quốc hội và Chính phủ phải xem xét lại pháp lệnh Tình báo và nghị định 96/CP, sửa đổi hoặc huỷ Nghị định 96/CP.
Cuối cùng, tôi xin nhắc lại: Đây là một vụ án chính trị cực kỳ nghiêm trọng, còn nghiêm trọng hơn gấp nhiều lần vụ Năm Cam, Lã Thị Kim Oanh, liên quan đến mất còn của chế độ XHCN và Tổ Quốc, đến sinh mệnh chính trị, uy tín, hạnh phúc của rất nhiều đồng chí, cả những đồng chí lão thành.
Là một đồng chí được tham gia sự lãnh đạo của Đảng 15 năm, tham gia lãnh đạo công tác tư tưởng, công tác tổ chức, công tác bảo vệ chính trị nội bộ Quân đội hơn 20 năm, tôi yêu cầu :
1.      Đồng chí Tổng bí thư, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Uỷ ban kiểm tra Trung ương, Ban chỉ đạo liên ngành phải tiếp tục làm sâu hơn, kỹ hơn, đến nơi đến chốn tính chất nghiêm trọng của vụ T4, vụ Sáu Sứ, vụ đồng chí Võ Viết Thanh và các vụ liên quan
2.      Thông báo cho các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ ban kiểm tra và các đồng chí Trung ương các khoá. Vì vụ này, kể từ vụ Sáu Sứ đã diễn ra từ khoá 6. Khoá 6 đã bàn giao cho khoá 7, khoá 8 đã bàn giao cho khoá 9.
3.      Báo cáo với Ban Chấp hành Trung ương khoá 9 vụ Sáu Sứ, T4, và các vấn đề của Tổng cục 2. Hồi còn tham gia Trung ương, có lần tôi đã phát biểu : Bộ Chính trị không được phép đặt mình cao hơn Trung ương. Mọi việc quan trọng trong Đảng đều phải báo cáo với Trung ương để Trung ương thực hiện quyền hạn và chịu trách nhiệm trước toàn Đảng. Ban Chấp hành Trung ương là cơ quan lãnh đạo cao nhất giữa hai kỳ Đại hội.
4.      Vấn đề này là vấn đề của chế độ, của Tổ Quốc, của dân tộc, của Nhà Nước. Phải xử lý đúng pháp luật của Nhà Nước, đúng theo tinh thần mà các hội nghị Trung ương đã xác định: Đối với pháp luật thì không trừ một ai, dù người đó ở cương vị gì. Không được xử lý nội bộ những việc liên quan đến pháp luật. Nói đi đôi với làm.
5.      Chúng tôi thấy có hiện tượng bao che, ngăn cản làm rõ sự thật, bao che, ngăn cản việc xử lý nghiêm minh các vụ vu khống chính trị do Tổng cục 2 thực hiện, từ vụ Sáu Sứ vu khống đồng chí Võ Nguyên Giáp, đồng chí Trần Văn Trà, vụ vu khống chính trị đòng chí Trương Tấn Sang, đồng chí Nguyễn Khánh Toàn, đồng chí Phan Văn Khải, Phan Diễn, Trương Vinh Trọng, Võ Trần Chí, Bùi Thiện Ngộ, Phạm Văn Đồng, Trần Tiến Cung, đồng chí Nguyễn Văn Thắng, thường vụ Quận 6 Thành phố Hồ Chí Minh, vụ vu khống đồng chí Võ Thị Thắng, vụ vu khống đồng chí Phạm Chánh Trực, Lê Văn Dũng, Lê Khả Phiêu, Phan Trung Kiên vv..., các vụ tung tin về đồng chí Võ Văn Kiệt, Nguyễn Văn An, Trần Đức Lương, Mai Chí Thọ, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Phạm Gia Khiêm, Nguyễn Huy Chương, Nguyễn Chơn, Nguyễn Nam Khánh, Tô Ký, Đồng Văn Cống. vv., các vụ làm tài liệu giả khác, vụ quân báo liên quan đến bè lũ Năm Cam.
Không phải chỉ dừng lại ở chỗ minh oan.
Căn cứ vào luật pháp, điều lệ, nguyên tắc Đảng, quyền dân chủ và quyên kiểm tra của đảng viên tôi yêu cầu phải làm rõ tính chất của tội phạm trừng trị nghiêm khắc cả những kẻ phạm tội và những kẻ bao che ngăn cản bất kể người đó là ai.
Tôi nghĩ rằng nếu đồng chí Tổng bí thư, Nguyên Tổng bí thư, các Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ ban kiểm tra, Uỷ viên Đảng uỷ quân sự Trung ương, các đồng chí nguyên cố vấn, đã biết các vụ này mà muốn cho qua, làm chiếu lệ cũng là bao che, ngăn cản, nói mà không làm.
6.      Không được viện cớ giữ ổn định mà không kiên quyết làm. Những vụ án vu khống chính trị do Tổng cục 2 gây nên đã làm mất ổn định chính trị, tạo ra nguy cơ tan rã đảng và mất độc lập chủ quyền, mất chế độ xã hội chủ nghĩa. Phải kiên quyết làm rõ và xử lý nghiêm minh thì mới củng cố và giữ vững ổn định. Nếu không, chính là càng cho mất ổn định thêm. Hiện nay đã có ý kiến cho rằng vin cớ giữ ổn định để không kiên quyết làm tức là bao che ngăn cản.
Xin cảm ơn. Xin chúc các đồng chí Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Uỷ ban kiểm tra sức khỏe.
Xin chúc Trung ương và các đồng chí làm đúng pháp luật, điều lệ và các nghị quyết của Đảng, thực sự lắng nghe ý kiến của đảng viên nói chung và các cán bộ hiểu biết có liên quan.
Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh
1 Nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục 2.
2 Nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục 2, bố vợ Nguyễn Chí Vịnh.
3 Tổng cục trưởng Tổng cục 2, con trai tướng Nguyễn Chí Thanh (Nguyễn Chí Thanh tên thực là Nguyễn Vịnh. Năm 1945, ông lấy bí danh là Nguyễn Chí Thanh, sau đó sinh con, đặt tên là Vịnh).
4 Chỉ các cán bộ Đảng Nhân dân Cách mạng CamPuChia.
5 Thiếu tướng Hồ Quang Hoá, sau vụ Xiêm Riệp bị hạ tầng công tác xuống đại tá, rồi cho về hưu. Tướng Hoá đã tham gia Hội nghị Paris về Việt Nam (1968-1973).
6 Có những nhân chứng báo cáo với Trung ương Đảng rằng Lê Đúc Anh không hề là công nhân, mà là cai phu, “cặp rằng” (caporal), tay sai của chủ đồn điền. Trong khi làm cặp rằng, Lê Đức Anh đã hành hạ đánh đập công nhân như một tên tay sai chính cống.
7 Lý lịch đảng viên của Lê Đức Anh bất minh, với đủ dấu hiệu giả mạo ngày gia nhập Đảng, người giới thiệu vào Đảng. Có những người biết nhưng không dám tố cáo vì sợ mất mạng.
8 Những cán bộ từng giữ những chức vụ cao trong hệ thống Đảng và Nhà nước.
9 Trần Văn Giàu, cán bộ lão thành cách mạng, nhà sử học.
10 Thành phố Hồ Chí Minh.
11 Charles Đức là một người Việt mang quốc tịch Pháp, làm cố vấn kinh tế cho Võ Văn Kiệt và sau đó cho Phan Văn Khải. Chồng của nữ nghệ sĩ Bạch Tuyết.







Thư Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh
                                                              Hà Nội, ngày 15 tháng 7 năm 2004
             Kính gửi:
     Ban chấp hành trung ương
     Đồng chí tổng bí thư và các uỷ viên bộ chính trị, uỷ viên ban bí thư
     Uỷ ban kiểm tra trung ương,
     Ban nội chính
     Ban bảo vệ chính trị nội bộ trung ương
     Đ/c chủ nhiệm uỷ ban kiểm tra khoá 7, khoá 8.
Hồi 16 giờ 30’ ngày 8/7/2004, đồng chí Phan Diễn, Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên thường trực Ban Bí thư có mời tôi đến gặp, tại phòng làm việc của đồng chí Phan Diễn (số 4 Nguyễn Cảnh Chân). Dự họp có đồng chí Thọ, Uỷ viên Trung ương, Trưởng ban bảo vệ chính trị nội bộ.
Do tính chất quan trọng của cuộc gặp và theo đúng Điều lệ Đảng về quyền hạn của đảng viên, tôi viết thư này kính gửi các đồng chí. Trước hết tôi nêu lại các ý kiến của đồng chí Phan Diễn và ý kiến của tôi về những việc liên quan đến vụ T4 đã phát biểu trong cuộc họp đó.

1- Ý kiến của đồng chí Phan Diễn

Tôi (đồng chí Phan Diễn) và đồng chí Tổng Bí thư đã nhận được văn bản của các đồng chí về vụ T4.
Tôi (đồng chí Phan Diễn) đồng ý một số nội dung trong văn bản của đồng chí.
- Vụ T4 là một vụ án chính trị nghiêm trọng. Bộ Chính trị đã tổ chức Ban kiểm tra liên ngành để xem xét. Ban kiểm tra liên ngành đã đề nghị Bộ Chính trị và Bộ Chính trị đã xác định là vụ án chính trị nghiêm trọng. Bộ Chính trị đã giao cho cơ quan Pháp luật truy tố, đưa ra xử 4 người: Chấp, Nguyên, Vinh, Diệu Hà từ 5 năm tù trở lên, đã giao cho Đảng uỷ Quân sự Trung ương xem xét các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy Tổng cục II. Đảng uỷ Quân sự Trung ương đã báo cáo lên Bộ Chính trị và Bộ Chính trị đang xem xét.
- Tôi (đồng chí Phan Diễn) đồng ý với đồng chí (Nguyễn Nam Khánh) trong Pháp lệnh Tình báo và Nghị định 96/ CP về Tình báo quân sự có nhiều nội dung sai phạm, Bộ Chính trị đã giao cho Thường vụ Quốc hội xem lại Pháp lệnh Tình báo và giao cho Văn phòng Chính phủ xem lại Nghị định 96/CP. Đồng thời đã chỉ thị cho Bộ quốc phòng hướng dẫn cho Tổng cục II xác định một số quy định và chỉ thị cho Tổng cục II không được theo dõi nội bộ.
- Sẽ cho kiểm tra, xem xét Tổng cục II từ tổ chức, nguyên tắc, thủ tục hoạt động. Việc này phải mất một thời gian.
- T4 là một vụ án nghiêm trọng nhưng Bộ Chính trị phải chọn vấn đề gì trực tiếp ảnh hưởng đến nội bộ Đảng, Nhà nước, Quân đội mới làm, báo cáo cho Bộ Chính trị rõ chứ không báo cáo cho Trung ương, có việc không nói cụ thể cho Trung ương và không thảo luận.
Trong văn bản của đồng chí có đề cập đến sự liên quan của một số đồng chí lãnh đạo trước đây. Vì đã lâu rồi và không ảnh hưởng trực tiếp đến nội bộ Đảng hiện nay nên không làm. Vì đưa ra vấn đề này, sẽ tranh cãi rồi không kết luận được, sẽ làm cho tình hình phức tạp thêm.
Trong vụ T4, có ý kiến anh Giáp, anh Mân, anh và một vài đồng chí nữa, nhưng Bộ Chính trị không báo cáo ý kiến của các anh với Ban Chấp hành Trung ương, ngay cả ý kiến anh Phiêu cũng không báo cáo với Ban Chấp hành Trung ương. ý kiến đề nghị có rất nhiều ý kiến khác nhau. Nếu đã đưa là đưa hết thì Ban Chấp hành Trung ương khó khăn trong việc xem xét, và không thể kết luận được, làm cho nội bộ phức tạp thêm.
- Các vấn đề mà đồng chí nêu trong bản tài liệu gửi Bộ Chính trị thì nhiều, có cái thuộc số người nói trên (ý nói là của Nguyên, Chấp, Vinh, Đặng Diệu Hà), không chính thức của Tổng cục II, có cái của chỉ huy Tổng cục II. Tôi biết, trong số bản tin này, Tổng cục II có đoạn đưa ra 10 bản tin có ký tên, một số không ký tên. Như vậy là thuộc về tài liệu mật và tài liệu không phổ biến. Nếu tài liệu này lộ ra ngoài, kẻ địch sẽ lợi dụng phá hoại Đảng. Nên tôi phê bình đồng chí là không tuân thủ nguyên tắc giữ bí mật tài liệu.

2- Ý kiến của tôi (Nguyễn Nam Khánh)

Trước hết tôi (Nguyễn Nam Khánh), cám ơn Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã cho tôi biết ý kiến của Bộ Chính trị và Ban Bí thư về văn bản của tôi gửi Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Uỷ ban kiểm tra và các cơ quan chức năng.
Sau đây tôi xin nói rõ ý kiến của tôi về các ý kiến của Bộ Chính trị và Ban Bí thư mà đồng chí vừa nêu lên.
1- Tôi đồng ý ý kiến nói rằng các nội dung trong văn bản của tôi nêu ra mà địch biết, địch có thể lợi dụng. Nên tôi đề nghị gặp đồng chí Tổng Bí thư để trực tiếp nói rõ vụ T4 với đồng chí Tổng Bí thư, tôi chờ hơn 1 tháng nhưng không thấy đồng chí Tổng Bí thư trả lời lúc nào gặp được. Những sự thật mà tôi nêu ra chỉ gửi Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cơ quan chức năng. Tôi biết tại Hội nghị trung ương lần thứ 10 (khoá 9), Bộ Chính trị sẽ báo cáo với Trung ương vấn đề T4. Như tôi đã viết trong văn bản: - Với tầm quan trọng của vấn đề và theo đúng Điều lệ Đảng, tôi đã viết thư gửi cho Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Uỷ ban kiểm tra Trung ương và cơ quan chức năng. Tôi trực tiếp niêm phong mang đến văn phòng Trung ương nhờ văn phòng Trung ương chuyển và ngoài bì tôi ghi rõ: - Chỉ người có tên mới được bóc. Như vậy là hết sức cẩn thận về bảo mật. Tôi gửi cho Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cơ quan chức năng, chứ không gửi cho địch. Nếu làm lộ tài liệu là do về các đồng chí nhận tài liệu, chứ tôi không làm lộ.
Việc tôi làm vừa qua là đúng nguyên tắc, đúng Điều lệ: “Đảng viên được phê bình, chất vấn về hoạt động của Tổ chức Đảng và đảng viên ở mọi cấp trong phạm vi tổ chức, báo cáo kiến nghị với cơ quan có trách nhiệm và yêu cầu được trả lời".
Tôi không đồng ý ý kiến đồng chí phê bình tôi là sai nguyên tắc giữ bí mật tài liệu nội bộ.
Đảng viên có quyền kiến nghị, đề nghị tới lãnh đạo các cấp, đến Bộ Chính trị, đến Ban Chấp hành Trung ương, đến Đại hội toàn quốc.
2- Tôi đồng ý là Bộ Chính trị, Ban Bí thư có quyền lựa chọn vấn đề để giải quyết. Nhưng lựa chọn vấn đề gì để giải quyết là trên nguyên tắc bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ Chế độ. Không phải trên nguyên tắc cơ hội, hữu khuynh.
Trong văn bản của tôi gửi Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Uỷ ban kiểm tra, các cơ quan chức năng, tôi nêu cả vấn đề T4 và chấn chỉnh Tổng cục II, một ít đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng vừa qua có liên quan đến Tổng cục II và T4, mục đích là để bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ Chế độ. Vì nếu không làm rõ vụ T4, những người chỉ huy Tổng cục II hiện nay và người lãnh đạo cấp cao liên quan đến T4 và Tổng cục II thì sẽ ảnh hưởng đến Đại hội 10, ảnh hưởng trực tiếp đến lựa chọn nhân sự cho Đại hội 10 và về sau nữa.
3- Vụ T4 với những bản tin vu khống của nó không chỉ do một nhóm người: Chấp, Nguyên, Vinh, Đặng Diệu Hà làm mà có sự chỉ đạo của chỉ huy Tổng cục II. Như vụ vu khống đồng chí Phạm Chánh Trực, Nguyễn Văn Thắng (thường vụ quận uỷ quận 6 – TPHCM), những đề nghị lập chuyên án người này, người kia là CIA đâu phải do Chấp, Nguyên, Vinh, Diệu Hà đưa ra mà do lãnh đạo, chỉ huy Tổng cục II hiện nay (Vũ Chính, Nguyễn Chí Vịnh), 255 bản tin dù có ký hay không đều do chỉ huy Tổng cục II gửi lên lãnh đạo cấp cao. Không phải do Chấp, Nguyên, Vinh, Diệu Hà gửi. Cho nên không chỉ đưa ra 4 người: Chấp, Nguyên, Vinh, Diệu Hà xử trước pháp luật, còn số chỉ huy, lãnh đạo Tổng cục II hiện nay (Vũ Chính, Nguyễn Chí Vịnh) xử lý nội bộ là không đúng.
4- Trong vấn đề dân chủ nội bộ, phải xuất phát từ động cơ quan điểm đúng, là vì lợi ích xây dựng và bảo vệ Đảng thì mới đi đến nhất trí; nếu vì động cơ cá nhân: "Phê bình đả kích cấp trên hoặc răn đe khống chế Đảng viên" thì không giải quyết được. Theo tôi, lãnh đạo cùng với Đảng viên bàn bạc dân chủ thì công việc mới kết quả.
Tôi cảm ơn đồng chí đã nghe tôi phát biểu.

3- Đồng chí Phan Diễn có ý kiến trở lại

Cũng cho tôi cảm ơn đồng chí đã có ý kiến trở lại về các ý kiến của Bộ Chính trị và Ban Bí thư.
Đến đây kết thúc cuộc gặp giữa tôi và đồng chí Phan Diễn.
Đồng chí Thọ ra trước. Tôi ra sau, bắt tay đồng chí Phan Diễn và nói thêm: Nếu các đồng chí không gửi tài liệu của tôi đến Ban Chấp hành Trung ương khoá 9 thì tôi có quyền và tôi có cách đến Hội nghị Trung ương lần 10/khoá 9 hoặc Hội nghị Trung ương sau đó để trao văn bản rồi ra về.
Đồng chí Phan Diễn nói lại: - Làm thế thì phức tạp quá.
Thưa các đồng chí
Tôi ghi lại những ý kiến chính liên quan đến vụ T4 trong cuộc gặp với đồng chí Phan Diễn, thay mặt Bộ Chính trị và Ban Bí thư gặp tôi và tôi đề nghị mấy ý kiến :
1- Theo Điều lệ Đảng và quyền hạn của đảng viên, tôi có quyền gửi kiến nghị, chất vấn đến Trung ương và Đại hội Đại biểu Đảng là cơ quan lãnh đạo cao nhất Đảng. Tôi làm việc này trong tổ chức. Tôi làm đúng nguyên tắc. Tôi có nghe nói: - Khi báo cáo với Trung ương có đồng chí nói đã phân tích với tôi là tôi vi phạm nguyên tắc. Tôi đã trả lời đồng chí Phan Diễn: - Tôi không vi phạm nguyên tắc. Tôi làm theo đúng Điều lệ Đảng. Tôi khẳng định một lần nữa như vậy.
2- Như tôi đã phát biểu khi tôi còn làm nhiệm vụ Uỷ viên Trung ương rằng: Ban Chấp hành trung ưng bầu ra Bộ Chính trị, Bộ Chính trị không được đặt mình cao hon Trung ương, Ban Chấp hành Trung ương bầu ra Bộ Chính trị, kiểm tra và giám sát Bộ Chính trị. Bộ Chính trị phải báo cáo với Trung ương các công việc xây dựng, củng cố Đảng, những vấn đề nội bộ Đảng, liên quan đến sự nghiệp bảo vệ Đảng, Nhà nước, Chế độ. Cho nên một lần nữa, yêu cầu Bộ Chính trị gửi toàn văn bản của tôi đến Trung ương. Vấn đề T4, các vấn đề của lãnh đạo, chỉ huy Tổng cục II rất nghiêm trọng, có hệ thống, rất nguy hiểm, liên quan đến sự trong sạch vững mạnh của Đảng, hạnh phúc của dân tộc nói chung và của các đảng viên là nạn nhân của sự vu khống chính trị của lãnh đạo Tổng cục II hiện nay. Không phải chỉ là của nhóm 4 người: Chấp, Nguyên, Vinh, Diệu Hà.
Kể từ vụ Sáu Sứ (1991), các vụ án dựng lên có bài bản, công phu đã gây hậu quả rất nghiêm trọng. Vụ Sáu Sứ, khoá 6 bàn giao cho khoá 7. Khoá 7 không làm. Khoá 8 bị ngăn cản, nên các người lãnh đạo Tổng cục II hiện nay lại tiếp tục gây ra các vụ án chính trị nghiêm trọng tiếp theo cho đến Đại hội 9.
Những tài liệu về vụ Sáu Sứ, các vụ liên quan đến Tổng cục II: vụ Ngọc sọ não, vụ người của Tổng cục II đưa lên mạng nói xấu lãnh đạo cấp cao của Đảng, vụ tên Vinh bán kế hoạch phòng thủ bầu trời cho địch, tên Kê làm pa-ra-bol để ăn cắp tiền, vụ đưa ảnh và tài liệu vu khống đồng chí Lê Khả Phiêu trước Đại hội 9, vv... là những tài liệu về những kẻ phạm tội. Đó không có gì là bí mật với Trung ương, với Uỷ ban kiểm tra các khoá liên quan, với các đồng chí Nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, nguyên Uỷ viên Ban Bí thư các khoá. Dấu diếm, ngăn cản, không làm rõ sự thật của tội phạm là phạm pháp, vi phạm đường lối, bản chất, truyền thống, và Điều lệ Đảng. Phát hiện kẻ tội phạm là có công. Vì có hiện tượng bao che, bịt kín sự thật về những tội phạm nghiêm trọng cho nên tôi phải làm rõ với Trung ương, Uỷ ban kiểm tra, các cơ quan chức năng và rồi đây báo cáo với các đồng chí nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, nguyên Uỷ viên Ban Bí thư các khoá. Vũ Chính và Nguyễn Chí Vịnh là những kẻ đồng chủ mưu các vụ vu khống của lãnh đạo hiện nay của Tổng cục II. Phải đưa ra Pháp luật. Vũ Chính và Nguyễn Chí Vịnh không phải là người có công trong vụ "khủng bố Võ Thị Thắng".
Quan điểm của Đảng là: - Thi hành Pháp luật, không trừ một ai dù người đó ở cương vị gì, dù tuổi tác bao nhiêu, dù trước đây đã giữ những chức vụ nào. Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, dưới sự chỉ đạo của các đồng chí thế hệ trước, Cục II đã có một đóng góp. Nhưng từ ngày Tư Văn, Vũ Chính nắm Cục 12 và Tổng cục II thì một bộ phận quan trọng Tổng cục II đã trở thành một công cụ vu khống chính trị. Vũ Chính, Nguyễn Chí Vịnh đã phản bội lại truyền thống Tổng cục II.
3- Uỷ ban Kiểm tra Trung ương là do Trung ương bầu ra, Uỷ ban kiểm tra Trung ương có trách nhiệm độc lập của mình, phải kiên quyết, trung thực, dũng cảm vạch ra sự thật, vạch ra tội phạm. Nếu có điều gì Uỷ ban Kiểm tra không thống nhất với Bộ Chính trị thì có quyền báo cáo với Ban Chấp hành Trung ương.
4- Trong các đồng chí nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, nguyên Uỷ viên Ban Bí thư, nguyên Phó Thủ tướng có thể có ý kiến khác nhau về một số vấn đề. Điều đó hoàn toàn dễ hiểu. Trong các đồng chí ấy có 3 loại ý kiến: - Một số thấy rõ sâu sắc sự nghiêm trọng và thật nguy hiểm có hệ thống của các người lãnh đạo Tổng cục II hiện nay, - Có người bao che muốn dấu sự thật, - Một số người chưa rõ. Cho nên phải có thảo luận, tranh luận, sòng phẳng, thật sự dân chủ phân biệt đúng sai trong các đồng chí ấy. Bộ Chính trị cần lắng nghe tất cả, phân biệt đúng sai trên quan điểm của Đảng, chứ không vì lý do có những ý kiến khác nhau mà xếp lại những vụ việc nghiêm trọng. Trung thực mà nói, ngay trong số đồng chí nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, nguyên Uỷ viên Ban Bí thư, cũng có người, cá biệt dính líu đến các vụ của lãnh đạo Tổng cục II hiện nay.
Xếp lại những vụ nghiêm trọng liên quan đến việc xây dựng chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh là thiếu trách nhiệm chính trị đối với Đảng, nhân dân, Tổ quốc, thiếu trách nhiệm với những đồng chí bị vu khống chính trị. Lịch sử của dân tộc và của Đảng đã chứng minh rằng: Không ai có thể che dấu và bịt kín được sự thật. Sự thật sẽ tự mở đường mà đi.
Xin chúc các đồng chí sức khoẻ, làm đúng tinh thần của Đảng: Kiên quyết làm đúng Pháp luật, không trừ một ai. Xin chân thành cảm ơn.
Thượng tướng, Nguyễn Nam Khánh
Nguyên Uỷ viên Trung ương khoá 5, khoá 6, khoá 7
Nguyên phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị






Thư ngày 15.11.2004 của Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh

Ngày 15 tháng 11 năm 2004

Kính gửi:
Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Bộ Chính trị, Ban bí thư
Đồng chí Bí thư Đảng uỷ quân sự Trung ương
Uỷ ban kiểm tra Khoá 9
Chủ nhiệm Uỷ ban kiểm tra Khoá 7 và Khoá 8
Thường vụ Đảng ủy Công an Trung ương

Thưa các đồng chí,

Sở dĩ tôi phải viết thư này, gửi đến các đồng chí, yêu cầu, chất vấn, kiến nghị với các đồng chí, không phải chỉ vì khi truyền đạt tới các đầu mối trong toàn quân, những người thay mặt Đảng ủy quân sự Trung ương đã có một việc làm vô nguyên tắc, xúc phạm đến danh dự của tôi. Điều quan trọng hơn nhiều là vì trách nhiệm của một đảng viên mong muốn Đảng ta luôn luôn vững mạnh trong sạch, tôi thấy trong bản báo cáo của Bộ Quốc phòng trước Hội nghị Đảng ủy quân sự Trung ương mở rộng thông qua, đã có những nhận định không đúng, đi ngược lại đường lối chủ trương của Đảng, mượn danh nghĩa « bảo vệ Đảng, Quân đội, chế độ XHCN » để xuyên tạc, vu khống trắng trợn, hòng dọn đường cho bước tiếp theo là lừa dối Đảng, quần chúng để hãm hại, thanh trừng nội bộ, chia rẽ Đảng, phá hoại sức mạnh tinh thần, trí tuệ, dân chủ, đoàn kết của toàn dân, toàn Đảng, của các đồng chí lão thành cách mạng, cựu chiến binh, trí thức nhân sĩ yêu nước và các thế hệ trẻ.

Ngày 24-8-2004, Đảng ủy quân sự Trung ương đã họp mở rộng. Trong cuộc họp này, đã nghe bản báo cáo về « Âm mưu, ý đồ của Mỹ và các thế lực thù địch chống phá Việt Nam - Đông Dương từ nay đến Đại hội 10 » (do Tổng cục 2 Bộ Quốc phòng chuẩn bị).

Trong bản báo cáo đó đã nhấn mạnh « hiện nay trong Đảng có tình hình chống phá Quân đội và tập trung mũi nhọn, trước hết là trực tiếp chống phá Tổng cục 2 ngày càng quyết liệt hơn, bôi nhọ Tổng cục 2, gây mâu thuẫn trong Tổng cục 2, ‘đánh sập’ Tổng cục 2 , làm cho Đảng ‘ù tai’, ‘mờ mắt’ ».

Khi truyền đạt bản báo cáo này, đồng chí Phạm Văn Trà nhấn mạnh thêm: Tổng cục 2 là người bảo vệ quân đội trung thành nhất, đánh Tổng cục 2 là đánh quân đội, đánh vào chế độ. Kinh nghiệm như ở Liên Xô, chỉ một nhóm người nhưng họ đã làm tan rã chế độ Xô Viết vì bước 1 họ đánh trước vào KGB (cơ quan tình báo LX) để dọn đường rồi sau đó đánh sập chế độ Xô Viết ...

Báo cáo của Bộ quốc phòng tại Hội nghị Đảng ủy quân sự trung ương mở rộng có nêu tên tôi (Nam Khánh). Và khi trình bày miệng, người trình bày nói rằng ông Nam Khánh gây rối, ông Nam Khánh cơ hội chính trị. Ở một vài tỉnh, truyền đạt ý kiến của Đảng uỷ quân sự trung ương rằng ông Nam Khánh có liên hệ với các phần tử chống đối ở nước ngoài. Đặc biệt là cuộc họp cán bộ từ Thượng tá, Đại tá trở lên ở cơ quan Tổng cục Chính trị, đồng chí Bùi Văn Huấn (Út Lê), Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị đã nói với cán bộ cao cấp của Tổng cục Chính trị là phải xem xét tư cách đảng viên của ông Nam Khánh, « với những hành động như vậy, ông Nam Khánh có xứng đáng với cấp hàm và chính sách được Nhà nước và Quân đội trao tặng hay không ? ».

Bản báo cáo của Bộ Quốc phòng được Hội nghị Đảng ủy quân sự Trung ương mở rộng thông qua lại nói rằng « hoạt động chống phá của chúng mang tính chất tổ chức chặt chẽ, phối hợp nhịp nhàng, bước đi rõ ràng (đẩy uy tín của một số lão thành cách mạng lên cao, sau đó sử dụng chính họ để ‘đánh vào nội bộ Quân đội’) ».

Bản báo cáo đã nêu ra: hiện nay chúng điều chỉnh phương thức « kích động cựu chiến binh, lão thành cách mạng, tăng cường viết bài để lôi kéo các lực lượng cựu chiến binh, lão thành cách mạng... Xây dựng cho được ‘ngọn cờ’ ngay trong nội bộ Đảng và Nhà nước là những người có nhiều công lao, có uy tín cao, có quan điểm dân chủ, đồng thời phải xây dựng ‘phong trào dân chủ ở cơ sở’... »

Khi tóm tắt, bản báo cáo nhấn mạnh: Để chuẩn bị tốt cho Đại hội 10 chúng ta phải giữ vững ổn định nội bộ, đặc biệt là trong quá trình Đại hội phải giữ nguyên tắc tập trung dân chủ, đặc biệt là tuyệt đối không để các thế lực bên ngoài (địch, cấp tiến, xét lại, bất mãn, những người không am hiểu tình hình ...) chi phối hoặc ngầm tác động.

Thưa các đồng chí,

Một: Hiện nay nội dung Báo cáo chính trị và các báo cáo khác tại Đại hội 10 chưa chuẩn bị xong và Ban Chấp hành Trung ương chưa thông qua lần thứ nhất. Ban chấp hành Trung ương cũng chưa có chỉ thị chung về Đại hội 10.

Tại sao Đảng ủy Quân sự TW và Bộ Quốc phòng lại đưa ra một bản báo cáo về âm mưu của Mỹ và các thế lực thù địch chống phá Đại hội 10, có thể nói rất giật gân như vậy ? Thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch, qua tất cả các kỳ Đại hội, kể từ khi Bác Hồ sáng lập Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa, triệu tập hội nghị hợp nhất năm 1930, từ Đại hội 1 cho đến nay đều không ngừng chống phá Đảng ta và nhân dân ta rất quyết liệt.

Nhưng đề cập đến một vấn đề hệ trọng bao gồm cả Quốc phòng và an ninh, liên quan đến một sự kiện trọng đại 5 năm mới có một lần, liên quan đến toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và bạn bè xa gần, liên quan đến hệ thống cơ quan Công an và các ngành là việc của Ban Chấp hành TW, phải thông qua Ban Chấp hành TW mới được phép phổ biến và phải phổ biến chung cho cả hệ thống chính trị.

Ở Quân khu khi phổ biến Báo cáo của Bộ Quốc phòng chỉ triệu tập Chỉ huy trưởng, các Cục, các Sư đoàn ... và Chủ tịch Hội cựu chiến binh các tỉnh, làm rất vội vã và không báo cáo với toàn thể Đảng ủy Quân Khu. Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy quân sự Tỉnh và Chủ tịch Hội cựu chiến binh Tỉnh, như tôi biết, khi về địa phương một số nơi không báo cáo cho Bí thư tỉnh uỷ đang kiêm nhiệm Bí thư Ban cán sự quân sự tỉnh.

Hai: Ban Chấp hành TW, Bộ Chính trị có nhận định hiện nay là Mỹ và các thế lực thù địch đánh phá Quân đội, tập trung mũi nhọn, đánh phá trực tiếp vào Tổng cục 2, đánh sập Tổng cục 2 không ?

Ban Chấp hành TW, Bộ Chính trị có nhận định: « Bài học Liên Xô cho thấy rằng, với một nhóm nhỏ của các phần tử cấp tiến phản động và xét lại trong Đảng cộng sản Liên Xô, rất nhỏ, có thể đếm chỉ vài chục người, nhưng mà chúng đã xóa được Liên Xô ... vì ở Liên Xô chúng tập trung bước 1 đánh vào KGB » hay không ?

Ba: Bản báo cáo của Bộ Quốc phòng đã nhắc tới mấy lần các lão thành cách mạng và cựu chiến binh là những đối tượng mà các thế lực thù địch lôi cuốn. Nước ta có mấy triệu cựu chiến binh, có mấy vạn lão thành cách mạng. Họ là những người đã chiến đấu và hi sinh cả một cuộc đời từ tuổi thanh xuân vì sự nghiệp cách mạng, giải phóng hoàn toàn Tổ Quốc. Hội nghị các điển hình tiên tiến các người cao tuổi chứng tỏ rằng: cho đến nay dù tuổi già sức yếu nhưng những lão thành cách mạng và người cao tuổi đều trung thành với lý tưởng cách mạng của Đảng và nhân dân. Cựu chiến binh là lực lượng chính trị - xã hội, một đoàn thể mạnh của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Bản báo cáo của Bộ quốc phòng nêu trên đã cố tình xuyên tạc, vu khống những lực lượng cách mạng và yêu nước rộng lớn và đáng kính trọng ấy.

Bốn: Bản báo cáo của Bộ Quốc phòng trình bày trước Hội nghị Đảng ủy Quân sự TW mở rộng đã nêu: Hoạt động chống phá của chúng mang tính chất tổ chức chặt chẽ, phối hợp nhịp nhàng, bước đi rõ ràng (đẩy uy tín của một số lão thành cách mạng lên cao, sau đó sử dụng chính họ để đánh vào nội bộ Đảng, nội bộ Quân đội).

Như vậy bản báo cáo của Bộ Quốc phòng ám chỉ ai ? Đồng chí Võ Nguyên Giáp, đồng chí Võ Văn Kiệt, đồng chí Chu Huy Mân hay đồng chí Nguyễn Thanh Bình, đồng chí Nguyễn Đức Tâm, đồng chí Đồng Sĩ Nguyên, đồng chí Mai Chí Thọ, đồng chí Lê Phước Thọ, đồng chí Mười Hương, đồng chí Hoàng Tùng, đồng chí Nguyễn Văn Trân, đồng chí Nguyễn Quyết, đồng chí Đỗ Mười, đồng chí Hai Xô, đồng chí Bùi Thiện Ngộ, đồng chí Võ Trần Chí, đồng chí Nguyễn Đôn, đồng chí Lê Ngọc Hiền, đồng chí Đàm Ngụy, đồng chí Võ Chí Công, đồng chí Lê Khả Phiêu, đồng chí Hoàng Minh Thảo, đồng chí Đồng Văn Cống, đồng chí Hoàng Cầm, đồng chí Nguyễn Trọng Xuyên, đồng chí Phùng Thế Tài hay là ai ? Bản báo cáo nói rằng: các thế lực thù địch đẩy uy tín của các lão thành cách mạng lên cao, rồi sử dụng chính họ « đánh » vào nội bộ Đảng, nội bộ Quân đội. Nghĩa là thế nào ?

Chiến thắng Điện Biên Phủ là thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta. Vừa qua kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, theo chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư phải nêu cao tầm vóc vĩ đại của chiến thắng Điện Biên Phủ trong đó có vai trò của đồng chí Võ Nguyên Giáp, chỉ huy trưởng chiến dịch Điện Biên Phủ và chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954. Đảng, Nhà nước, báo chí của ta đề cao chứ thế lực thù địch nào đề cao ? Xuất bản các tập sách về các lão thành cách mạng và tướng lĩnh quân đội là do chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và sự thực hiện của các cơ quan xuất bản của chúng ta dưới sự quản lý của Bộ Thông tin Văn hóa nước CHXHCNVN chứ do các thế lực thù địch nào làm ? Bản báo cáo của Bộ quốc phòng muốn nói các thế lực thù địch đứng đằng sau và xúi dục các cơ quan thông tấn, báo chí, xuất bản này hay sao ?

Bản báo cáo lại nêu: « Sau đó, sử dụng chính họ để ‘đánh’ vào nội bộ Đảng, nội bộ Quân đội ». Chứng cứ nào để Bộ Quốc phòng nói rằng: sau đó, các thế lực thù địch sử dụng chính họ để « đánh » vào nội bộ Đảng, nội bộ Quân đội ?

 « Thế lực thù địch đề cao rồi sử dụng » các đồng chí Võ Văn Kiệt, Võ Nguyên Giáp, Chu Huy Mân, Hai Xô, Nguyễn Thanh Bình, Nguyễn Đức Tâm, Mai Chí Thọ, Lê Phước Thọ, Đồng Sĩ Nguyên, Nguyễn Văn Trân, Nguyễn Quyết, Hoàng Tùng, Trần Quyết, Trần Văn Quang, Nguyễn Đôn, Đồng Văn Cống, Đàm Ngụy, Đỗ Quang Thắng, Lê Khả Phiêu, Võ Trần Chí, Hoàng Minh Thảo, Phùng Thế Tài, Nguyễn Trọng Xuyên, Lê Ngọc Hiền, Đặng Vũ Hiệp, Phạm Thanh Ngân, Ksor Ní, Y Blốc ... đánh vào nội bộ Đảng, nội bộ Quân đội hay sao ?

Những sự góp ý kiến của lão thành cách mạng, của cựu chiến binh về tình hình Quân đội, là xuất phát từ tâm huyết, động cơ chân thành xây dựng Đảng, xây dựng chế độ XHCN, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng quân đội, góp sức làm cho nhân dân được sống hạnh phúc, yên bình.

Bản báo cáo của Bộ Quốc phòng đã nói một cách vu vơ mà thực chất là đã vu khống, xuyên tạc, bôi nhọ lão thành cách mạng, cựu chiến binh đã bị địch lợi dụng.

Bản báo cáo của Bộ Quốc phòng lại nêu một thủ đoạn của thế lực thù địch trong nước là « lợi dụng kích động một số lão thành cách mạng gửi cho các cơ quan chức năng của Đảng và Nhà nước ».

Cán bộ lão thành cách mạng dễ dàng để cho địch lợi dụng, kích động như vậy hay sao ? Hễ có thư góp ý chân thành với Đảng là do các thế lực thù địch lợi dụng, kích động hay sao ?

Bản báo cáo của Bộ quốc phòng lại nêu: « giữ vững ổn định nội bộ, không để các thế lực thù địch lợi dụng, kích động gây chia rẽ nội bộ, đặc biệt là trong quá trình Đại hội 10, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, đặc biệt là không để các thế lực bên ngoài (địch, cấp tiến, xét lại, bất mãn, những người không am hiểu tình hình ...) chi phối hoặc ngầm tác động ».

Chúng ta phải kiên quyết và dứt khoát chống lại âm mưu phá hoại Tổ quốc, Đảng, chế độ, quân đội của các thế lực thù địch. Chúng ta phải củng cố và tăng cường đoàn kết trong toàn Đảng trên cơ sở nhất trí sâu sắc đường lối quan điểm cách mạng của Đảng, phát huy những ưu điểm có được và kiên quyết khắc phục các khuyết điểm (và cả sai lầm nếu có) đang tồn tại, phải thật sự tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết TW6 (lần 2) Khóa 8, phải thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách, phải đảm bảo mỗi kỳ Đại hội Đảng là một sinh hoạt chính trị rộng lớn và có chiều sâu trong lòng dân, lòng người, lòng đảng viên ở tất cả các cấp, phải nghiêm túc tự phê bình và phê bình, giải quyết sòng phẳng các vấn đề tồn đọng trong Đảng, phải thật sự lắng nghe ý kiến các lão thành cách mạng, cán bộ, đảng viên, đông đảo các nhà khoa học trí thức, văn nghệ sĩ, nhà báo, nhân sĩ và các tầng lớp nhân dân, làm cho qua mỗi kỳ Đại hội, Đảng cùng với dân tộc lại trưởng thành và vững mạnh thêm 1 bước. Đại hội 10 kế thừa truyền thống tốt đẹp của các Đại hội Đảng trước đây sẽ là một Đại hội yêu nước và cách mạng, đoàn kết, trí tuệ, dân chủ, đổi mới, Đại hội của dân, do dân, vì dân, Đại hội của toàn Đảng vì sự nghiệp của Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội.

Nhưng bản báo cáo của Bộ Quốc phòng trong lúc cũng nói đến nguyên tắc tập trung dân chủ, không để cho các thế lực thù địch kích động chia rẽ nội bộ, thì lại nói đến một cách mơ hồ rằng: đặc biệt là tuyệt đối không để cho các thế lực thù địch bên ngoài (địch, cấp tiến, xét lại, bất mãn, những người không am hiểu tình hình ...) chi phối hoặc ngầm tác động ... Như vậy Bản báo cáo của Bộ Quốc phòng đã gộp cả địch, cấp tiến, xét lại, bất mãn, những người không am hiểu tình hình ... vào một cục, đó là các thế lực bên ngoài có đúng không ?

Ban Chấp hành TW và Bộ Chính trị có nhận định như vậy không ? có gộp tất cả địch, cấp tiến, xét lại, bất mãn những người không am hiểu tình hình ... vào một cục không ? Những người không am hiểu tình hình ... (chấm chấm; chấm chấm có nghĩa là còn có nhiều loại khác nữa) là những ai ? Muốn ám chỉ ai ? Tại sao lại gộp những người không am hiểu tình hình vào với địch, cấp tiến, xét lại làm một ? Tại sao những kẻ viết báo cáo là Tổng cục 2 được Bộ Quốc phòng thông qua lại cho rằng những người không am hiểu tình hình vào với địch, cấp tiến, xét lại làm một ? Tại sao những kẻ viết báo cáo là Tổng cục 2 được Bộ quốc phòng thông qua lại cho rằng những người không am hiểu tình hình sẽ chi phối hoặc tác động ngầm ?

Đảng ta chủ trương tự phê bình và phê bình nghiêm túc với động cơ trong sáng xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Bọn phát xít, đế quốc, các thế lực thù địch thì nói rằng: « kẻ nào chỉ trích ta thì kẻ đó là phản động ». Chúng ta phải phân biệt rạch ròi hai quan điểm ấy.

Dân chủ không phải là chung chung. Có dân chủ tư sản, dân chủ kiểu Mỹ phục vụ lợi ích một nhóm tư bản độc quyền và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nhà nước CHXHCN của chúng ta đi theo tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh. Mọi quyền hành thuộc về dân, mọi lực lượng đều từ nhân dân, mọi việc làm đều phải phục vụ lợi ích nhân dân. Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra ... Nhân dân giám sát chính quyền các cấp. Toàn Đảng giám sát Trung ương. Ban Chấp hành TW giám sát Bộ Chính trị. Phải xây dựng phong trào dân chủ ở cơ sở thật tốt. Chúng ta kiên quyết thực hành dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Dân chủ là một tư tưởng chiến lược mà Đại hội Đảng lần thứ 9 đã thông qua. Không được phép đả kích vào phong trào dân chủ ở cơ sở, phong trào xây dựng quy chế dân chủ ở cơ sở.

Tóm lại, trong Bản báo cáo của Bộ Quốc phòng trước Hội nghị Đảng ủy quân sự mở rộng và được Hội nghị Đảng ủy Quân sự mở rộng thông qua, phổ biến cho cán bộ cấp cao toàn quân và các Hội cựu chiến binh là một tài liệu chứa đựng nhiều sai trái với đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước. Trong khi Bản báo cáo nêu ra âm mưu của Mỹ và các thế lực thù địch chống phá Đông Dương - Việt Nam từ nay đến Đại hội 10, thì lại có dụng ý vu khống, xuyên tạc và ám chỉ sâu độc 1 vấn đề khác, một số người khác mà tập trung vào lão thành cách mạng, cựu chiến binh, các đồng chí có cống hiến, có uy tín cao trong nhân dân, trong quân đội, trong Đảng.

Thưa các đồng chí,

Tôi thấy cần thiết nói thêm về việc Bản báo cáo của Bộ Quốc phòng nêu ra vấn đề « chống Tổng cục 2 »

Bản báo cáo của Bộ Quốc phòng đã nói đến 7 lần cụm từ « chống Tổng cục 2 » khi nêu việc « chống phá, tập trung mũi nhọn, đánh sập Tổng cục 2 ».

Thủ đoạn này không phải là mới mẻ. Thời kỳ có nhiều ý kiến trong Trung ương và trong cán bộ cao cấp về các sai lầm nghiêm trọng của những người lãnh đạo hiện nay của Tổng cục 2, thì Nguyễn Chí Vịnh, Tổng cục trưởng Tổng cục 2 đã có báo cáo lên lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước ta là đang có tình hình « chống Tổng cục 2 ». Lúc ấy, trước và sau đó, cũng từ Tổng cục 2 đưa ra tin Bộ Công an đánh Tổng cục 2, người này người kia đánh Tổng cục 2, chia rẽ Tổng cục 2, « đánh sập » Tổng cục 2.

Trước hết, cần nói rằng: các đồng chí lão thành cách mạng và tướng lĩnh Quân đội qua mấy thời kỳ kháng chiến đều đánh giá đúng sự đóng góp và truyền thống của Cục 2 (trước đây) và Tổng cục 2 sau này. Phát hiện, tố giác các sai lầm mắc phải là tố giác sai lầm của một số người lãnh đạo giai đoạn gần đây của Tổng cục 2 (Vũ Chính, Nguyễn Chí Vịnh, Cù Xuân Tề, Hùng, viện trưởng Viện 70 ...)

Vin vào truyền thống trước đây và đồng nhất những sai lầm của 1 số người lãnh đạo Tổng cục 2 giai đoạn hiện nay với toàn thể cán bộ, nhân viên Tổng cục 2 là một thủ đoạn xấu, có dụng ý che dấu sai lầm của 1 số người lãnh đạo giai đoạn hiện nay của Tổng cục 2.

Đồng chí Phạm Văn Trà và một số đồng chí khác nói rằng: « đánh Tổng cục 2 » là đánh Quân đội, đánh vào chế độ, có nghĩa là đồng nhất sai lầm của 1 số lãnh đạo hiện nay của Tổng cục 2 với Quân đội, với chế độ XHCN, là có dụng ý xấu, là một thủ đoạn bao che tội lỗi, sai lầm của một số lãnh đạo Tổng cục 2, Tổng cục 2 là Tổng cục 2.Toàn thể Quân đội, Đảng và chế độ XHCN là toàn thể Quân đội, Đảng, chế độ XHCN. Đó là hai chủ thể không được phép nhầm lẫn. Vạch sai lầm của Trần Mai Hạnh không phải đánh đài TNVN. Vạch sai lầm của Bùi Quốc Huy không phải đánh Bộ Công an. Vạch sai lầm của con trai đồng chí Mai Văn Dâu không phải là đánh Bộ Thương mại.

Nhập cục lại để vu khống và bao che tội phạm là một thủ đoạn bất lương.

Vạch ra sai lầm của một số người lãnh đạo giai đoạn hiện nay của Tổng cục 2, thậm chí yêu cầu khai trừ ra khỏi Đảng, tước quân tịch, truy tố trước tòa án quân sự Vũ Chính, Nguyễn Chí Vịnh, không đồng ý mức kỷ luật cảnh cáo Vũ Chính và để lọt tội Nguyễn Chí Vịnh, là để đảm bảo củng cố và phát huy truyền thống từ trước của Cục 2, chứ không phải là bôi nhọ Tổng
cục 2.

Trước kia, do yêu cầu của chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, công tác tình báo chiến lược cần tập trung vào một đầu mối. Tình hình ngày nay đã khác. Các đồng chí lão thành cách mạng, tướng lĩnh quân đội đề nghị phải củng cố cơ quan an ninh chiến lược quốc gia thật mạnh, còn Tổng cục 2 thì đưa về Bộ Tổng Tham mưu để làm công tác tình báo quốc phòng là một đề nghị đúng đắn, xuất phát từ thực tiễn tình hình sau chiến tranh.

Đề nghị Tổng cục 2 không được « nắm tình hình nội bộ Đảng », không được trùm lên cả Bộ Công an ... hoàn toàn không phải như lời vu khống là nhằm « đánh sập Tổng cục 2 » làm cho Đảng « ù tai », « mờ mắt ». Không được phép lấy những luận điệu xuyên tạc từ cửa miệng các thế lực thù địch để vu khống lão thành cách mạng và tướng lĩnh quân đội chúng ta.

Còn làm cho Đảng « mờ mắt », « ù tai » thì trong vụ Xiêm Riệp ai làm ? Dựng lên, ghép lại, vo tròn những việc làm nơi này một ít, nơi kia một ít, từ 1 người cung cấp lại bày chuyện là do từ nhiều nguồn, nhân danh « bảo vệ tình hữu nghị giữa hai dân tộc » để phá hoại tình hữu nghị đó, ai làm ? Chính là Tư Văn, Vũ Chính, Mạc Lâm ... của Cục 12.

Vụ Sáu Sứ là một vụ án được dàn dựng, tổ chức công phu do Cục 2 chỉ đạo mà trực tiếp là Tư Văn, Vũ Chính và 1 số người dưới quyền, vừa tổ chức Sáu Sứ đi ghi âm 16 cuốn băng, vừa làm báo cáo lên Bộ Chính trị, tạo dựng lên tài liệu giả, chứng cứ giả, gọt tỉa, thêm bớt, đánh lừa dư luận xã hội, đánh lừa Bộ Chính trị, những người lãnh đạo cao nhất để hãm hại đồng chí, thanh trừng nội bộ mà thực chất là vu khống đồng chí Võ Nguyên Giáp. Ai làm cho Đảng « ù tai », « mờ mắt » ? Chính là Vũ Chính và số người cùng phe cánh Tư Văn (chết rồi) đã làm cho Đảng « ù tai », « mờ mắt ».

Vụ « khủng bố đồng chí Võ Thị Thắng », vu khống đồng chí Nguyễn Văn Thắng, vu khống lý lịch đồng chí Võ Viết Thanh, vu khống đồng chí Tư Sang, Tư Rốp, Nguyễn Khánh Toàn, Võ Nguyên Giáp, Bùi Thiện Ngộ, Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải, Lê Khả Phiêu, tôi (Nam Khánh), Thượng tướng Nguyễn Chơn, Trung tướng Nguyễn Huy Chương, Phạm Gia Khiêm, Vũ Quốc Hùng v.v... làm việc hoặc liên quan đến CIA, ai đưa ra ? « Cảnh báo Mai Chí Thọ » đảo chính ai đưa ra ? Không thể chỉ có Vinh, Chấp, Nguyên, Đặng Diệu Hà (công ty xuất nhập văn hóa phẩm Thành phố Hồ Chí Minh) mà phải có người trực tiếp chỉ đạo đứng đằng sau, đó là Vũ Chính, Nguyễn Chí Vịnh.

Vụ vu khống đồng chí Nguyễn Thị Xuân Mỹ, Vũ Quốc Hùng nhận tiền hối lộ, ai cung cấp tài liệu ?

Rồi vụ bịa đặt ra 1 cơ sở đặc tình giả là T4 để vu khống, chia rẽ nội bộ trong thời gian dài, ai làm ra ? Những người trực tiếp thừa hành vụ T4 có Đỗ Ngọc Chấp là Cục Phó Cục 11, có Nguyễn Thái Nguyên là Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, nếu không có chỉ đạo của Vũ Chính, Nguyễn Chí Vịnh sao dám tuỳ tiện làm ?

Việc cài cắm hàng ngàn người vào nội bộ, cơ quan Đảng, Nhà nước, kinh tế văn hóa ... ai làm ? Một số lãnh đạo Tổng cục 2 giai đoạn hiện nay đã làm cho Đảng « ù tai », « mờ mắt », nhằm hãm hại cán bộ, thanh trừng, chia rẽ, phá hoại Đảng và hệ thống chính trị nước ta. Chính những người lãnh đạo hiện nay của Tổng cục 2 đã hạ thấp uy tín của Tổng cục 2 vốn có truyền thống tốt trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Chính những người lãnh đạo trong giai đoạn hiện nay của Tổng cục 2 (Vũ Chính, Nguyễn Chí Vịnh) đã tạo ra những sai lầm để cho kẻ địch lợi dụng phá hoại Đảng, Tổ quốc, chế độ ta và chia rẽ Tổng cục 2.

Thủ đoạn hiện nay mà Bản báo cáo của Bộ Quốc phòng đã sử dụng cũng là một thủ đoạn cũ. Họ định ghép các lão thành cách mạng, cựu chiến binh, những người có uy tín cao ... vào một cục, vào một phía địch.

Họ muốn đẩy tất cả những ý kiến chân thành của lão thành cách mạng, tướng lĩnh quân đội và cán bộ, nhân dân có tâm huyết với Đảng, Tổ quốc và chế độ là do địch xúi dục, kích động. Họ đã cố tình gây ra sự lẫn lộn thù, bạn, mà sự lẫn lộn ấy từ các vụ H122, cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức trước đây và vụ Xiêm Riệp, vụ Sáu Sứ, vụ T4 và các vụ trước thềm Đại hội 9 đã dẫn đến sai lầm, gây hậu quả lâu dài và nghiêm trọng.

Sai lầm của những người lãnh đạo giai đoạn hiện nay của Tổng cục 2 là sai lầm chính trị nghiêm trọng có hệ thống. Tôi yêu cầu phải báo cáo hết các vấn đề của các người lãnh đạo Cục 12, Cục 2 và Tổng cục 2 trong giai đoạn từ vụ Xiêm Riệp, Sáu Sứ đến nay để Ban Chấp hành Trung ương xem xét quyết định. Không một ai, dù chức vụ gì, được phép bao che sai lầm của những người lãnh đạo trong giai đoạn hiện nay của Tổng cục 2. Không được vin cớ "ổn định chính trị" để không tích cực làm rõ sự thật. Kiên quyết trừng trị những kẻ vu khống chính trị, phá hoại n ội bộ Đảng, Nhà nước, Quân đội, chỉ làm cho sự ổn định chính trị thực được củng cố vững chắc, và từng bước đánh bại âm mưu của các thế lực thù địch.

Thưa các đồng chí,

Tôi thấy cũng cần nói đôi điều về các lời đồng chí Phạm Văn Trà, đồng chí Huấn, một đôi đồng chí khác đã nói về tôi (Nam Khánh).
Đồng chí Phan Diễn, đồng chí Truyền, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban kiểm tra TW đã gặp tôi và tôi khẳng định: Tôi hành động đúng Điều lệ Đảng (chương đảng viên), hành động đúng nguyên tắc là gửi thư lên Ban Chấp hành TW, Bộ Chính trị, Uỷ ban kiểm tra TW; cơ quan chức năng theo tổ chức. Động cơ, việc làm của tôi là để xây dựng, chỉnh đốn Đảng, là lành mạnh và tâm huyết. Tôi không gửi cho địch. Không có gì diễn ra ở nước ta mà địch không lợi dụng. Không được viện cớ địch lợi dụng để bỏ qua việc xét nghiêm túc các lời tố giác chân thành và đúng đắn của tôi. Tài liệu lọt ra ngoài, là do trách nhiệm của các người nhận.
Tôi xin thẳng thắn và chân thành với các đồng chí: cấp bậc Thượng tướng do Bộ Chính trị quyết định và Chủ tịch nước ký, tư cách đảng viên của tôi là do chi bộ, Đảng ủy Phường nghiên cứu đề đạt lên đến cấp có thẩm quyền chuẩn y, đồng chí Phạm Văn Trà và đồng chí Huấn lấy tư cách gì, được ai ủy nhiệm, căn cứ theo quyết định nào của Trung ương mà dám nói lên những điều đó ?
Như tôi đã trao đổi với đồng chí Truyền, Phó Chủ nhiệm UB kiểm tra TW, các đồng chí muốn thi hành kỷ luật tôi thì phải:
Mời hết đồng chí Võ Nguyên Giáp, đồng chí Chu Huy Mân và các đồng chí đã có ý kiến đóng góp về vụ án chính trị nghiêm trọng T4 v.v... lên Ban Chấp hành TW và Ban chấp hành TW ra một quyết định: cán bộ, đảng viên (bao gồm cả Uỷ viên Trung ương Đảng, Uỷ viên Bộ Chính trị) từ khóa 9 (tháng 4 năm 2001) không được phép gửi thư, kiến nghị, yêu cầu chất vấn lên TW, Bộ Chính trị.
Ban Chấp hành TW Khóa 9 công bố xoá bỏ điều 3 chương Đảng viên trong Điều lệ do Đại hội Đảng lần thứ 9 thông qua.
Và tôi đề nghị thêm một điều nữa: Trung ương chỉ thị cho Bộ Văn hóa và Thông tin, Ban Tư tưởng Văn hóa xóa bỏ hết các khẩu hiệu hiện đang viết đầy ngoài đường phố: « toàn dân tham gia tố giác tội phạm ... ».
Suốt đời tôi, từ khi tham gia cách mạng, vào Quân đội cho đến nay là góp phần chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, xây dựng Quân đội và Chủ nghĩa xã hội ...
Không được phép ghép tôi (Nam Khánh) với Bùi Tín, Nguyễn Gia Kiểng ... và bọn thực dân Pháp, đế quốc Mỹ. Kẻ nào cố tình nói tôi là « phần tử cấp tiến », liên hệ với bọn phản động bên ngoài vv... là phạm pháp. Tôi có quyền yêu cầu pháp luật CHXHCNVN trừng trị theo Luật hình sự.
Tôi yêu cầu:
Các đồng chí Bộ Quốc phòng, Đảng ủy quân sự TW, Tư lệnh và Bí thư Đảng ủy Quân khu, Bí thư (hoặc Phó bí thư) các Đảng ủy Quân binh chủng, các Tổng cục, Bộ Tổng Tham mưu, Học viện, Viện quân y, đã phổ biến những điều về tôi thì đồng thời phải gửi bức thư này đến tập thể những người đã được nghe phổ biến.
Đề nghị lưu ý rằng: cơ chế nhận xét đảng viên có quy định: cấp uỷ, thủ trưởng nhận xét về đồng chí nào thì cần có sự có mặt của đồng chí ấy.
Đề nghị Bộ Chính trị sao thư gửi Ban Chấp hành TW ngày 17/6/2004 và bức thư này của tôi cùng với Bản báo cáo của Bộ Quốc phòng trước Hội nghị Đảng ủy Quân sự Trung ương mở rộng ngày 24/8/2004 đúng theo bản gốc đã báo cáo trước Hội nghị Đảng ủy Quân sự Trung ương đến Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Trước mỗi kỳ họp Quốc hội, đại biểu Quốc hội tiếp xúc với cử tri, lắng nghe ý kiến của cử tri rồi tổng hợp báo cáo với toàn thể Quốc hội. Trong Đảng cần làm như vậy. Trước mỗi kỳ họp TW, Uỷ viên TW phải tiếp xúc với đảng viên, lắng nghe ý kiến, tổng hợp các vấn đề mà đảng viên kiến nghị, yêu cầu, chất vấn lên Ban Chấp hành TW.
Có ý kiến khác nhau trong cán bộ, đảng viên thì cứ phản ảnh hết, để TW nghe. Ví dụ trong các vấn đề tôi nêu ra, đồng chí Lê Đức Anh, đồng chí Đỗ Mười, 1 số đồng chí khác có ý kiến gì ngược lại thì cứ nêu. Nêu cụ thể cả tên người, sự việc, không nêu chung chung như là một số đông, một số ít, có người, có ý kiến vv... Trong Đảng phải sòng phẳng và bình đẳng về chính trị.
Là Bí thư Quân ủy TW, đồng chí Nông Đức Mạnh phải chịu trách nhiệm về sự thông qua tại Hội nghị Quân ủy TW mở rộng đối với Bản báo cáo của Bộ Quốc phòng ngày 24/8/2004.Yêu cầu đồng chí Nông Đức Mạnh, theo đúng điều 3, chương đảng viên trả lời cho tôi biết các ý kiến chất vấn, yêu cầu, kiến nghị của tôi.
Tập thể Bộ Chính trị và Ban Chấp hành TW phải nghe và thông qua Nghị quyết của Hội nghị Đảng ủy quân sự TW mở rộng ngày 24/8/2004 về Báo cáo của Bộ Quốc phòng. Nếu đúng thì các đồng chí có quyền công bố là đúng và chịu trách nhiệm về quyết định ấy trước toàn Đảng. Nếu sai điểm nào thì phải sửa điểm ấy và phải phổ biến lại cho cán bộ cao cấp trong toàn quân và các Hội CCB. Nếu thấy cần phải chờ một Nghị quyết chung của Ban Chấp hành TW về Đại hội 10 thì mới xác định các vấn đề chung về « âm mưu của Mỹ và các thế lực thù địch chống phá Đông Dương - Việt Nam và Đại hội 10 » thì phải huỷ bỏ bản báo cáo của Bộ Quốc phòng hoặc sửa chữa sau khi Trung ương có ý kiến tập thể. Mọi vấn đề phải để Ban Chấp hành TW thảo luận dân chủ, sòng phẳng và quyết định.
Nếu các đồng chí không gửi thư này của tôi đến Ban Chấp hành TW Đảng, đến các đầu mối trong toàn quân, thì theo như Điều lệ Đảng, tôi sẽ trực tiếp gửi (bao gồm một số lão thành cách mạng và tướng lĩnh quân đội). Danh sách lão thành cách mạng, tướng lĩnh quân đội mà tôi gửi bức thư này tôi sẽ gửi lên Bộ Chính trị và Ban Bí thư biết.
Vừa qua có dư luận rằng thư từ kiến nghị, chất vấn gửi lên Bộ Chính trị và Trung ương, đồng chí Phạm Văn Trà đều đưa sang báo cho đồng chí Lê Đức Anh và cho Tổng cục 2 biết. Nếu dư luận đó có thật thì tôi thấy rằng việc làm đó là vô nguyên tắc, tôi yêu cầu phải chấm dứt.
Cũng còn một số điểm tôi chưa trình bày được hết và có một số vấn đề không tiện nói ở đây. Nhưng tôi xin tạm dừng ở đây. Mong các đồng chí đọc và trả lời cho tôi theo đúng Điều lệ Đảng, càng sớm càng tốt, tốt nhất là bằng giấy.
Xin chúc sức khoẻ và cảm ơn.
Trân trọng,         Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh
                             
Nguyên Uỷ viên Trung ương Đảng
BA CÁN BỘ LÃO THÀNH TỐ CÁO TƯỚNG LÊ ĐỨC ANH
LTS. Ngày 3-2 vừa qua (kỉ niệm 75 năm ngày thành lập Đáng cộng sản), 3 cán bộ lão thành đã gửi thư cho lãnh đạo ĐCSVN yêu cầu phải xử lí nghiêm khắc trường hợp Lê Đức Anh, nguyên uỷ viên Bộ chính trị, nguyên chủ tịch nước. Ba đảng viên đó là ông Phạm Văn Xô (Hai Xô), 95 tuổi, 75 tuổi đảng, nguyên uỷ viên Thường vụ xứ uỷ Nam Bộ (thời Kháng chiến), nguyên uỷ viên Trung ương, Đồng Văn Cống (Bảy Cống), 87 tuổi, trung tướng, nguyên tư lệnh Quân khu 9, Phó tư lệnh Quân giải phóng, tư lệnh Quân khu 7, Nguyễn Văn Thi (Năm Thi), 85 tuổi, nguyên tư lệnh Đặc khu Sài Gòn Chợ Lớn, chủ nhiệm hậu cần Bộ chỉ huy Miền Nam. Chúng tôi xin đăng dưới đây toàn văn lá thư này :

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 03 tháng 02 năm 2005

Kính gửi :

- Bộ Chính Trị
         · Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng
         · Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa 9

Đồng kính gửi:

         · Thành uỷ thành phố Hồ Chí Minh
         · Đại tướng Võ Nguyên Giáp
         · Đồng chí Lê Khả Phiêu, nguyên Tổng bí thơ
         · Đồng chí Nguyễn Đức Tâm, nguyên ủy viên Bộ Chính Trị, Trưởng ban tổ chức Trung ương
Chúng tôi gồm:

         1. Phạm Văn Xô (Hai Xô) sinh năm 1910, vào Đảng năm 1930, nguyên ủy viên Thường vụ Xứ ủy Nam bộ thời kháng chiến chống Pháp, ủy viên Thường vụ Trung ương cục Miền Nam - Trưởng Ban Kiểm tra Trung ương cục thời chống Mỹ, nguyên ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng - ủy viên Ban kiểm tra Trung ương khóa 3, nghỉ hưu tại thành phố Hồ Chí Minh.

         2. Đồng Văn Cống (Bảy Cống), trung tướng, sinh năm 1918, nguyên trung đoàn trưởng trung đoàn 99 Nam bộ thời kháng chiến chống Pháp, Tư lịnh quân khu 9, Phó tư lịnh Quân giải phóng Miền Nam, ủy viên Quân ủy Miền thời kháng chiến chống Mỹ, Tư lịnh Quân khu 7, Phó tổng thanh tra Quân đội sau ngày đất nước thống nhất, nghỉ hưu tại thành phố Hồ Chí Minh.

         3. Nguyễn Văn Thi (Năm Thi) sinh năm 1920, nguyên ủy viên Ban cán sự đảng, ủy viên tỉnh ủy, ủy viên thường vụ tỉnh ủy Thủ Dầu Một (nay là tỉnh Bình Dương) từ năm 1942 đến năm 1946, Chi đội trưởng chi đội 1, Liên trung đoàn trưởng 301 – 310, Tư lịnh đặc khu Saigon – Chợ Lớn (1950), Bí thư đảng bộ nhà tù Côn Đảo (1953) thời kháng chiến chống Pháp,Chủ nhiệm hậu cần Bộ chỉ huy Miền thời chống Mỹ, nghỉ hưu tại thành phố Hồ Chí Minh.

Có thư báo cáo và kiến nghị lên các cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng mấy điểm sau đây:

* Thời gian qua, nhiều cán bộ lão thành cách mạng và cựu chiến binh cao tuổi ở thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Nam bộ đến gặp chúng tôi hỏi tình hình nội bộ Đảng. Họ đưa chúng tôi xem nhiều tài liệu mà con cháu họ truy cập được từ Internet. Trong các tài liệu đó, có thư của nhiều tướng lĩnh và lão thành cách mạng gửi Bộ Chính trị và Trung ương khóa 9, đặc biệt là thư ngày 3/1/2004 của Đại tướng Võ Nguyên Giáp; các thư của Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh, nguyên Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐNDVN, nguyên ủy viên trung ương Đảng các khóa 5, 6, 7; của đồng chí Nguyễn Trọng Vĩnh, 65 tuổi Đảng, nguyên Cục trưởng cục tổ chức Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp, ủy viên trung ương Đảng khóa 3; của đồng chí Nguyễn Tài, anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, nguyên Thứ trưởng Bộ công an, Phó chủ nhiệm ủy ban Phápluật của Quốc hội khóa 8.

* Các bức thơ tâm huyết đó đều kiến nghị Bộ Chính trị phải sớm đưa ra Hội nghị Trung ương Đảng xem xét và xử lý một loạt các vụ việc nghiêm trọng liên tiếp xảy ra trong Đảng hàng chục năm qua, trong đó có vụ T4, từng được Bộ Chính trị khóa 8 bàn giao lại cho Bộ Chính trị khóa 9 và được coi là “một vụ án chính trị siêu nghiêm trọng” nhưng đến nay vẫn chưa vạch mặt những kẻ cầm đầu để xử lý một các triệt để.
Những vụ việc trên, chúng tôi ít nhiều đều có nghe, có biết. Qua các thư trên, chúng tôi càng hiểu rõ hơn. Nhưng do phải chờ kết luận của Trung ương, chúng tôi không thể giải thích cho những người đến hỏi.

Nay xin báo cáo và cung cấp một số tư liệu để Trung ương có thêm căn cứ xem xét nguồn gốc các vụ việc nói trên.

Theo chúng tôi thì những vụ việc nghiêm trọng xảy ra trong hơn hai chục năm qua, từ vụ Xiêm Riệp (1983), Sáu Sứ (1991), vụ nâng Cục 2 lên thành Tổng cục 2 với quyền hạn siêu đảng, siêu Nhà nước, được hợp pháp hóa bằng Pháp lệnh tình báo của Quốc hội và Nghị định 96CP của Chính phủ, vụ T4 (1997 – 1999), đến vụ nói xấu, vu khống nhằm lật đổ Tổng bí thư Lê Khả Phiêu trước Đại hội 9 v.v… đều có bàn tay của một nhân vật từng hoạt động cách mạng và kháng chiến ở Nam bộ mà chúng tôi đều biết rõ. Đó là nguyên cai đồn điền cao su, nguyên Chủ tịch nước, nguyên Cố vấn Lê Đức Anh.

Vì sự trong sạch và vững mạnh của Đảng, với ý thức trách nhiệm của những người Cộng sản từng gắn bó với Đảng và hoạt động ở Nam bộ hơn sáu bảy chục năm qua, chúng tôi xin báo cáo với Đảng một số hiểu biết về Lê Đức Anh như sau:

         1- Lê Đức Anh không phải là công nhân cao su như tự khai trong lý lịch mà là người phụ trách việc chế biến thực phẩm cho chủ đồn điền và các quan chức Pháp ở LộcNinh (chef des cooperatives) từ đầu thập kỷ 40 của thế kỷ 20 được anh chị em công nhân cao su đặt cho biệt danh là “cai lé” do chột mắt vì bệnh đậu mùa. Lê ĐứcAnh là người giúp việc thân cận của chủ đồn điền De Lalant một sĩ quan phòng nhì củaPháp.
Lương của y cao như lương của Chef de camp.

Năm 1955, sau khi bộ đội Nam bộ tập kết ra miền Bắc, đồng chí Trần Văn Trà là Tư lịnh kiêm Chính ủy, đồng chí Nguyễn Văn Vịnh là Phó chính ủy, đồng chí Đồng Văn Cống làm tham mưu trưởng, Lê ĐứcAnh làm tham mưu phó . Thấy Lê Đức Anh không được vào Đảng ủy, đ/c Đồng Văn Cống hỏi thì đồng chí Vịnh trả lời "qua lớp chỉnh Đảng ở Việt Bắc, lý lịch của Lê Đức Anh không rõ, nên không giới thiệu".

Trong một lần tâm sự với Lê Đức Anh, đ/c Đồng Văn Cống hỏi : "Nghe người ta nói cậu là surveillant?", Lê Đức Anh không trả lời. Đ/c Đồng Văn Cống hỏi tiếp : "hay cậu là 2è bureau (phòng nhì)?". Lúc ấy Lê ĐứcAnh mới nói : "tôi làm công chức cho đồn điền".

Đến Đại hội Đảng lần 4 năm 1976, đ/c Đồng Văn Cống, Lê Đức Anh và Nguyễn Chánh Nam cùng dự đại hội, sinh hoạt trong Đoàn quân sự . Khi xem danh sách giới thiệu vào Trung ương khóa 4, thấy ghi Lê Đức Anh là công nhân cao su, đ/c Đồng Văn Cống hỏi : "Sao cậu khai là công nhân?" Lê Đức Anh ấp úng trả lời : "Họ ghi sai, tôi là công chức !".

         2. Lê Đức Anh không phải là đảng viên từ năm 1938 mà từ tháng 4 năm 1945, khi Ban cán sự Đảng Thủ Dầu Một tuyên bố tổ chức y vào Đảng và giao nhiệm vụ cho y về gây dựng cơ sở cách mạng ở đồn điền cao su Lộc Ninh trong một cuộc họp có 8 người, trong đó có đồng chí Năm Thi tham dự, vì thấy y tỏ ra hăng hái trong phong trào công nhân cao su ở Lộc Ninh sau ngày Nhật đảo chánh Pháp. Cuộc họp đó do bí thơ Văn Công Khai chủ trì bàn việc phối hợp với phe đồng minh chống phát xít Nhật theo chủ trương chung của Mặt trận Việt Minh.

Do man khai là đảng viên từ năm 1938, nên năm 1998, Lê Đức Anh được tặng huy hiệu 60 năm tuổi Đảng, được báo chí, truyền hình rầm rộ đưa tin trên cả nước!

Đầu năm 2002, để tiếp tục "hợp thức hóa" đảng tịch của mình, Lê Đức Anh cho công chiếu trên đài truyền hình trung ương bộ phim tài liệu nhan đề "đồng chí Lê Đức Anh" vào tối mùng 4 Tết. Không tìm được "nhân chứng lịch sử" nào sáng giá hơn, người ta cho xuất hiện một ông anh trong gia đình để xác nhận "Lê Đức Anh từng đậu Đíp-lôm (Thành Chung) và vào đảng năm 1938 !"

         3. Lê Đức Anh đã 2 lần để sổng toàn quyền Decoux, thống đốcNam kỳ Hoffen và chủ đồn điền De Lalant, sĩ quan phòng nhì của Pháp.

Trong cuộc đảo chánh Nhật – Pháp ngày 9/3/1945, quân Nhật bắt được toàn quyền Pháp ở Đông Dương Decoux và thống đốc Nam kỳ Hoffen tại Saigon, sau đó giải về giam ở nhà De Lalant, chủ đồn điền cao su ở Lộc Ninh. Đ/c Năm Thi được giao nhiệm vụ dẫn một đội vũ trang lên Lộc Ninh tìm cách bắt sống hoặc tiêu diệt tiểu đội bảo vệ của Nhật, rồi tổ chức dẫn độ Decoux và đồng bọn lên Buôn Mê Thuột để đưa ra Bắc chuyển giao cho Trung ương. Đ/c Năm Thi đã bàn bạc với Lê Đức Anh và nhất trí lên kế hoạch phối hợp hành động. Nhưng đêm hôm sau, y bất ngờ hủy bỏ kế hoạch, viện cớ sẽ bị quân Nhật kéo lên khủng bố, phá vỡ cơ sở cách mạng của y!

Tháng 9/1945, khi chỉ huy quân Anh vào Nam vĩ tuyến 16 tiếp nhận sự đầu hàng của quân Nhật, tướng Gracey đòi Nhật trao Decoux và đồng bọn cho quân đội Anh. Để ngăn cản việc đó, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một chủ trương cắt đường giao thông từ Lộc Ninh về Saigon, bằng cách đốn cây cản đường từ Lộc Ninh về Hớn Quản rồi phục kích tiêu diệt lực lượng áp giải để bắt bọn Decoux, đơn vị của Lê Đức Anh đã được bổ sung thêm vũ khí để thực hiện nhiệm vụ này. Y nhận lệnh nhưng đã tránh né, cử người khác làm thay. Tên này đã lệnh cho tự vệ dỡ cây và mở đường cho bọn Nhật đưa Decoux, Hoffen và De Lalant về Saigon an toàn!

         4. Trong thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam bộ, Lê Đức Anh đã bỏ chạy, không tổ chức cho lực lượng vũ trang đánh trả quân Pháp tập kích vào Thuận Lợi, phá hủy một khối lượng lớn cơ sở vật chất dự trữ của miền Đông.

Để chuẩn bị cơ sở vật chất cho cuộc kháng chiến, ta chủ trương di chuyển máy móc, thiết bị vật tư lương thực của các đồn điền cao su và các địa phương miền Đông Nam bộ về khu vực Thuận Lợi (Phú Riềng cũ) thuộc công ty cao su Dầu Tiếng là địa bàn ở sâu trong hậu phương ta. Trong khi quân Pháp tập kích Thuận Lợi, Lê Đức Anh và lực lượng võ trang thuộc quyền của y đang đóng trên đất Thuận Lợi nhưng đã không tổ chức chiến đấu đánh trả quân địch mà bỏ chạy dài về Cổng Xanh, chiến khu Đ. Do đó Thuận Lợi bị quân Pháp đốt cháy toàn bộ kho tàng, nhà cửa trong 3 ngày đêm liền. Nghe tin tư lịnh Nguyễn Bình sẽ xử tử mình vì tội đó, Lê Đức Anh bèn lánh mặt, đưa quân về vùng Bắc Bến Cát. (Lúc ấy, đ/c Năm Thi là ủy viên thường vụ Tỉnh ủy, Chi đội phó, kiêm tham mưu trưởng Chi đội 1 Thủ Dầu Một nên biết rõ việc này).

         5. Từ năm 1979 đến 1989, lãnh đạo vàchỉ huy quân tình nguyện Việt Nam chiến đấu và giúp bạn ở Campuchia, Lê Đức Anh đã phạm nhiều sai lầm về chính trị và quân sự.

- Về chính trị , ngoài vụ Xiêm Riệp bắt nguồn từ chủ trương "đánh địch ngầm" do Lê Đức Thọ và Lê Đức Anh đề ra, Lê Đức Anh đã có nhiều biểu hiện và hành vi coi thường bạn, cho kiểm tra nhà ở của một số ủy viên Bộ Chính trị Đảng nhân dân cách mạng CPC, bao biện làm thay, can thiệp vào công việc nội bộ, bắt bớ đảng viên của bạn khiến bạn phản ứng và nghi ngờ tình cảm quốc tế trong sáng của Đảng, Nhà nước và quân đội ta.

- Về quân sự, đã đánh giá quá thấp kẻ địch, chủ trương "trongnăm 1980, quét sạch quân địch ngoài địa hình mà trọng điểm là vùng rừng Ô Ran, đồng thời hoàn thành về cơ bản nhiệm vụ phá tan âm mưu địch dùng phần tử hai mặt lũng đoạn đảng và chính quyền của bạn" (!) . Đã chỉ đạo chiến tranh theo kiểu “ăn đong”, năm này chưa xong thì năm sau, kéo dài đến mười năm mà vẫn chưa diệt được đối thủ mà Lê Đức Anh gọi là “tàn quân” Polpot!

Từ cuối năm 1979, Lê Đức Anh đề ra chủ trương “khóa chặt biên giới”, “xây dựng tuyến phòng thủ biên giới” với mật danh K5 bằng cách huy động đông đảo nhân dân các địa phương nước bạn, từ rừng núi đến đồng bằng lên biên giới cùng quân tình nguyện Việt Nam và bộ đội bạn chặt cây, đào hào, rải chông và căng dây thép gai nhằm ngăn chận quân Polpot từ Thái Lan vào đất Campuchia (!). Mặc dù ta và bạn đã bỏ ra nhiều công sức và tiền của trong nhiều năm, nhưng biên giới vẫn không “khóa chặt” được, địch vẫn mở được hành lang qua biên giới vào nội địa, xây dựng được nhiều căn cứ dọc biên giới, có nơi vào sâu đến 30, 40 kilomet!

Do chủ trương sai lầm của Lê Đức Anh mà hàng chục vạn cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam cũng như bộ đội và nhân dân bạn đã bỏ xác trên tuyến biên giới dài 1.200 km cũng như trong nội địa do bị địch đánh úp, do mìn và sốt rét ác tính!

Mặc dù vậy, đến năm 1983, Lê Đức Anh vẫn cho rằng ở Campuchia chưa có chiến tranh, chỉ mới là những “hoạt động du kích”của bọn “tàn quân” Polpot. Chúng sẽ bị tàn lụi vào năm 1985 như Nghị quyết của Ban cán sự và Bộ tư lệnh 719! Khi bộ phận tiền phương của Cục khoa học quân sự Bộ tổng tham mưu tại Campuchia đề nghị nên có sự đánh giá khách quan hơn, có sự chỉ huy chiến tranh bài bản hơn trên cơ sở nghiên cứu tính chất và đặc điểm của cuộc chiến tranh ở Campuchia để tìm ra quy luật đặc thù của nó, thì Lê Đức Anh nổi giận, ra lệnh cho cơ quan tiền phương Cục khoa học quân sự gồm 10 đại tá phải rút ngay về nước, trả lại cho Bộ Tổng tham mưu với lý do “tinh giản biên chế ở chiến trường!”

Có những sai lầm khuyết điểm như trên, nhưng Lê Đức Anh vẫn thăng tiến rất nhanh, từ Ủy viên trung ương khóa 4 lọt vào Bộ Chính trị khóa 5 rồi tiến lên nắm chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Chủ tịch nước!

         6. Trong quan hệ gia đình, Lê ĐứcAnh là người chồng phản bội: Ra Bắc được mấy năm, Lê Đức Anh nói với đ/c Đồng Văn Cống là sẽ xin lấy vợ khác, vì bà Bảy Anh trong Nam đã lấy chồng, lại thuộc thành phần gia đình phản động làm tay sai cho địch ! Đ/c Đồng Văn Cống nói: “hôm ở Cao Lãnh tôi thấy chị Bảy khóc lóc rất dữ khi tiễn anh đi tập kết, nghe nói sau đó chị về công tác ở miền Đông, căn cứ vào đâu mà anh nói chị đi lấy chồng và theo địch? Tôi không tán thành”!
Nhưng rồi nhờ sự ủng hộ của Lê ĐứcThọ, Lê Đức Anh vẫn bỏ được vợ cũ, lấy được vợ mới. Trong lúc đó thì trong hoàn cảnh đấu tranh khốc liệt và gian khổ ở miền Nam, chị Bảy vẫn một lòng kiên trung chờ đợi và tiếp tục hoạt động cách mạng, làm Ủy viên tỉnh ủy Bình Dương cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng!
Khi biết chuyện này, các đồng chí Phạm Hùng, Nguyễn Thị Định và đông đảo cán bộ miền Nam đều rất bất bình, cho Lê Đức Anh là một tên vô đạo đức!
Thưa Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng!
Đây không phải là lần đầu tiên các đảng viên Nam bộ báo cáo với Đảng những hiểu biết nói trên về Lê Đức Anh:
Từ năm 1982, khi được tin Lê ĐứcAnh vào Bộ Chính trị khóa 5, đồng chí Thiếu tướng Tô Ký và hai đồng chí Bảy Cống và Năm Thi bàn nhau và đã làm báo cáo gửi Ủy ban kiểm tra Trung ương Đảng và Thường vụThành ủy thành phố Hồ Chí Minh, nhưng không có hồi âm!
Cuối năm 1986 đầu năm 1987, khi thấy Lê Đức Anh được bầu vào Bộ Chính trị rồi làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng sau hai cái chết bất ngờ của hai đại tướng Hoàng Văn Thái và Lê Trọng Tấn, đ/c Nguyễn Văn Thi lại viết thơ tay gửi trực tiếp đến các đồng chí NguyễnVăn Linh, Nguyễn Đức Tâm, Lê Đức Thọ nói rõ lai lịch và những hành động đáng ngờ của Lê Đức Anh trước và sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhưng 18 năm qua các khóa Trung ương vẫn chưa có trả lời!
Đến Hội nghị Trung ương 11B khóa 8 tháng 2 năm 2001, trước thủ đoạn nói xấu, vu khống quá lộ liễu của Lê Đức Anh nhằm lật đổ Tổng bí thư Lê Khả Phiêu, đồng chí Hai Xô đang làm việc ở Hà Nội biết đ/c Năm Thi từng có đơn tố giác, bèn gọi Năm Thi ra gặp các đồng chí Hai Xô, Nguyễn Đức Tâm, Mười Hương và Ủy ban kiểm tra Trung ương để làm rõ quá khứ của Lê Đức Anh (đ/c Đồng Văn Cống không ra Hà Nội trực tiếp báo cáo, đã phát biểu vào băng ghi âm gửi ra Ủy ban kiểm tra Trung ương vào đầu tháng 3 năm 2001). Trong cuộc họp đó, đồng chí Nguyễn Đức Tâm xác nhận: khi làm Trưởng ban tổ chức Trung ương, có nhận được thơ tố giác của đ/c Năm Thi đã báo cáo với Lê Đức Thọ nhưng được trả lời là gác lại, giải quyết sau. Thấy Lê Đức Anh được Lê ĐứcThọ bảo vệ, đồng chí Nguyễn Văn Linh đành phải gác qua. Cũng trong cuộc họp đó, đồng chí Hai Xô phát biểu: “Nếu không chặn đứng được mưu đồ của Lê Đức Anh và đồng bọn, thì tình hình nội bộ Đảng sẽ ngày càng nghiêm trọng!”

Như vậy là hơn hai chục năm qua, qua nhiều lần Đại hội Đảng và nhiều khóa Trung ương, chúng tôi đã nhiều lần nói rõ về Lê Đức Anh, nhưng mãi cho đến nay lai lịch, và các hành vi sai trái của nhân vật này vẫn chưa được xác minh và xử lý, gây tác hại nghiêm trọng đến sự trong sạch và vững mạnh, sự đoàn kết và thống nhất của Đảng.

Chúng tôi nhất trí với ý kiến của Đại tướng Võ Nguyên Giáp là “Ban Chấp hành Trung ương khóa 9 cần xử lý kiên quyết, dứt điểm, nghiêm minh những vụ việc tồn đọng nói trên theo đúng Điều lệ của Đảng, pháp luật của Nhà nước, và kỷ luật của Quân đội, dù người đó là ai, ở bất kỳ cương vị nào!".

Chúng tôi tán thành ý kiến của các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Nam Khánh, Nguyễn Tài v.v… là “không cho phép duy trì mãi một tổ chức siêu đảng, siêu chính phủ, không thể để Tổng cục 2 tồn tại với quyền hạn quá rộng như Nghị định 96/CP cho phép, mà chỉ tập trung vào nhiệm vụ tình báo quân sự trực thuộc Bộ Tổng tham mưu như trước đây”.
Không cho phép tái diễn những hành vi hãm hại người trung thực, như người ta từng vu khống, tước quân hàm và định bắt giamThượng tướng Trần Văn Trà, sau đó phải trả lại quân hàm mà không công bố; từng vu khống với ý đồ hãm hại Đại tướng khai quốc công thần Võ Nguyên Giáp!
Chúng tôi cho rằng: không chỉ riêng vụ T4, mà toàn bộ những vụ việc xảy ra mấy chục năm qua là những mắt xích của một vụ án chính trị nghiêm trọng nhất trong lịch sử 75 năm của Đảng, có quan hệ đến sự tồn vong của Đảng và đất nước.
Đây không phải là "chuyện ngày xưa” của mấy vị cách mạng lão thành mà các khóa Bộ Chính trị và Trung ương sau này không thể làm rõ được! Không ! Đây là những vấn đề lịch sử quan trọng cần xác minh để soi sáng những vụ việc ngày nay. Mảnh đất Lộc Ninh và không ít nhân chứng cùng thời vẫn còn sống. Chỉ cần có trách nhiệm, có dũng khí và quyết tâm là làm được ! Chúng tôi sẵn sàng có một cuộc đối chất trực diện nếu Bộ Chính trị yêu cầu !
Không thể vin vào lý do “ổn định nội bộ“ mà bỏ qua và che giấu việc này, vì nhiều tài liệu đã được công bố trên internet, nên trong Đảng cũng như ngoài Đảng, trong nước cũng như ngoài nước, nhiều người đã biết các vụ việc xảy ra.Hồ Chủ tịch nói : "Một Đảng che giấu khuyết điểm sai lầm của mình là một Đảng hỏng !". Bộ Chính trị càng bưng bít thì càng mất uy tín, càng làm giảm lòng tin của đảng viên và quần chúng đối với Trung ương.
Đúng như đồng chí Nguyễn Trọng Vĩnh đã cảnh báo : "Đang có những làn sóng bất bình ngầm ngày càng lan rộng. Sự yên lặng hiện nay là sự yên lặng của những quả bom nổ chậm chưa đến giờ hẹn". Tình hình trong Nam cũng vậy.
Kính mong Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương lắng nghe tiếng nói đầy tâm huyết của các tướng lĩnh, các cán bộ lão thành cách mạng mà quá trình hoạt động và sự đóng góp cho cách mạng đã chứng minh sự trung thành của họ.
Giải quyết dứt điểm và thành công vụ án chính trị siêu nghiêm trọng này, kiên quyết loại trừ những phần tử cơ hội ra khỏi các cơ quan quyền lực của Đảng và Nhà nước, chấm dứt các hiện tượng cá nhân lũng đoạn là việc làm cấp thiết và cực kỳ quan trọng để chuẩn bịcho Đại hội toàn quốc lần thứ 10 của Đảng.
Đây cũng là việc làm thiết thực để kỷ niệm 75 năm ngày thành lập Đảng ta!
Xin gửi đến các đồng chí Bộ Chính trị và Trung ương lời chào trân trọng và rất mong được sớm trả lời!
Xin cám ơn.

Phạm Văn Xô
         Địa chỉ: 225/18 – Xô Viết Nghệ Tĩnh - quận Bình Thạnh- Tp.HCM – ĐT: 899 1300
Đồng Văn Cống
         Địa chỉ: 774/2 Nguyễn Kiệm - quận Phú Nhuận – Tp.HCM – ĐT: 844 7328
Nguyễn Văn Thi
         Địa chỉ: 20B88 Cư xá Nguyễn Trung Trực, đường 3/2 - quận 10 – Tp.HCM – ĐT: 865 5878

V NHÂN VT SỐ 2 TRONG TỔNG CỤC 2         

Qua một loạt sự kiện bị tố cáo khắp nước, Tổng Cục 2 (TC2) hiện đang lo củng cố nội bộ. Sau khi lá thư của Tướng Nam Khánh (Xem bài lưu trữ của ĐCV) tố cáo TC2 lộng quyền, dám tạo dựng nhân vật tình báo giả “T4” để vu cáo một số cán bộ cao cấp của Đảng nhằm “đảo chánh” nội bộ, TC2 vội giải thể Cục 15. Cục 15 là đứa con cưng của TC2 và là cục tình báo công nghệ, hiện Cục 15 đã sát nhập với Cục 16 tức Cục tình báo chiến lược, lo về lĩnh vực quân sự, chính trị, kinh tế, xã hội thông qua các công ty kinh doanh bình phong ở trong và ngoài nước. Sau khi sát nhập xong, trong buổi họp giao ban Nguyễn Chí Vịnh nói: "Những gì ông Nam Khánh nói tôi đã giải quyết xong rồi", đó là vào tháng 8/2004, thời điểm giải tán Cục 15.

Hiện nay, các cán bộ chủ chốt của C15 nắm giữ những vị trí lãnh đạo trong C16. Các bản tố cáo hầu hết nêu đích danh nhân vật số 1 của TC2 là Nguyễn Chí Vịnh, tuy nhiên một nhân vật cũng ghê gớm không kém Vịnh, hiện giữ chức vụ Tổng cục phó là Phạm Ngọc Hùng, tức Hùng Tút, từ cục trưởng C15 nhảy lên giữ chức Tổng cục phó Tổng cục 2 năm 2002, nghiễm nhiên trở thành nhân vật số 2 trong TC2.

Năm 1997, Hùng Tút chỉ mang quân hàm thiếu tá, hiện nay đã có quân hàm thiếu tướng. Tất cả đều do Nguyễn Chí Vịnh nâng đỡ vì Hùng Tút là đàn em của Vịnh. Nguyễn Chí Vịnh rất thành công khi dựng nên những tay sai để phục vụ cho lợi ích cá nhân của Vịnh và gia đình. Đến giờ này, các sĩ quan an ninh trong TC2 vẫn chưa hiểu nổi tại sao cả một bộ máy chính trị từ Trung ương Đảng đến điạ phương đã bị bố con Vũ Chính - Nguyễn Chí Vịnh thao túng. Từ Ban Tổ chức trung ương, nơi sắp xếp cán bộ đến Cục cán bộ thuộc Tổng cục chính trị đều bị Vịnh khống chế hoàn toàn.

Vì vậy, trong nội bộ Vịnh toàn quyền quyết định, muốn thăng chức, đưa ai lên thì đưa, giữ chức vụ nào cũng được mà không cần xem xét tới năng lực công tác, tư cách đạo đức, trình độ nghiệp vụ và quá trình cống hiến. Hầu hết những vị trí chủ chốt hiện nay trong TC2 đều là anh em bè bạn, tay chân thân tín, gia đình cũa Vịnh nắm giữ, chủ yếu là thành phần xuất thân từ tầng lớp "bán cháo lòng" khi Vịnh và gia đình lúc còn hàn vi. Nhiều cán bộ an ninh đều có nhận xét TC2 chính là bộ máy gia đình trị.

Nếu không có Vịnh, Phạm Ngọc Hùng, nhân vật số 2 trong TC2, người giữ chức Tổng Cục phó thường trực hiện nay chỉ là Hùng Tút bình thường. Hùng là bạn thân của Vinh, sau khi học xong ở Học viên kỹ thuật quân sự, Hùng được điều về Viện khoa học công nghệ thuộc Bộ quốc phòng. Mặc dù học kỹ thuật, nhưng do học kém, lười suy nghĩ, không khả năng nghiên cứu, hàng ngày Hùng đến cơ quan chừng 1 hoặc 2 tiếng đồng hồ thì chuồn, nên có tên gọi là Hùng "tút".

Nếu còn ở học viện, có lẽ Hùng đã nghĩ hưu với hàm thiếu tá từ lâu. Tuy nhiên, khi thành lập Công ty Toseco, Vịnh đã kéo Hùng về và phong ngay chức phó giám đốc. Từ đó cặp bài trùng Vịnh –Hùng sát cánh bên nhau. Toseco chỉ là đơn vị bình phong, vỏ bọc bên ngoài để che đậy các hoạt động kinh doanh bất hợp pháp. Nơi đây lại là cái nôi để những kẻ đã từng bán cháo lòng trước kia nhảy lên nắm các vị trí chủ chốt trong TC2. Năm 1997 chỉ mới là thiếu tá, đến nay mang hàm thiếu tướng, trung bình cứ 2 năm Hùng lên 1 sao. Trong đời quân ngũ, rất khó cho bất cứ ai được phong quân hàm vượt cấp, nhất là ở thời bình. Vậy mà trong TC2, ngoài Vịnh và Hùng thường xuyên được phong quân hàm vượt cấp, thì đám tay chân bộ hạ xuất thân cùng gốc "cháo lòng" với Vịnh, Hùng cũng được tăng vù vù. Hàng năm, TC2 vẫn nặn ra thành tích đánh lừa Bộ quốc phòng, lừa Trung ương để được thăng quân hàm trước thời hạn. Bản thân Vịnh, Hùng thường xuyên nặn ra thành tích để nhận các danh hiệu cao quí như huân chương, danh hiệu anh hùng cho bản thân. Đây là sự lừa dối ghê tởm nhất không có trong lịch sử Quân đội Việt Nam.

Khi còn ở Viện khoa học công nghệ, Hùng luôn luôn là người bị lép vế với bất kỳ ai, đi đâu cũng bị anh em coi thường do trình độ chuyên môn yếu. Nhưng ở TC2 thì khác, Hùng là người có công xây dựng và củng cố gia đình trị cho Vịnh. Toàn bộ các vị trí chủ chốt trong các ban phòng của các Cục, Viện đều do Hùng tham mưu cho Vịnh phê duyệt. Do vậy, rất nhiều người phải nịnh bợ Hùng để được thăng tiến.

Tội nghiệp nhất là những sĩ quan cao cấp, chuyền từ các quân khu, các quân chủng về, thông thường thì hơn Hùng từ 10 đến 15 tuổi. Dù có rất nhiều thành tích, những người này phải nịnh bợ Hùng để được nâng đỡ. Hiện nay số cán bộ cao cấp này đang ngồi chơi xơi nước rất nhiều vì không có việc để làm. Nghiêm trọng nhất là trong TC2 có các đơn vị kinh doanh bình phong ở trong và ngoài nước đều do Hùng dựng lên. Nhiều người bà con, thân nhân của Hùng từ dưới quê được kéo lên phong cho các chức danh giám đốc các công ty này. Những công ty bình phong này thực chất là để TC2 lợi dụng các quỹ mật của Bộ Quốc phòng cấp cho hoạt động tình báo. Nên nhớ rằng quỹ cho hoạt động tình báo chiếm hơn một nữa toàn bộ quỹ Quốc phòng. Do đó, mới thấy tại sao đất nước ta còn nghèo đến thế.

Ở Sàigon có công ty Teseco, công ty Hòa Bình (đã giải thể), công ty Cửu Long (đã giải thể), khách sạn Omil, khách sạn Hoàng Đế, khách sạn Hoàng Hà (vừa bị bắt vì tội chứa gái mãi dâm cao cấp có người mẫu, diễn viên điện ảnh nổi tiếng tham gia, ví dụ như Yến Vy, Kim Tịnh…). Riêng Hà nội có công ty Detetour, công ty này đã làm thất thoát nhà nước mấy trăm tỉ, phải giải thể và đổi thành công ty Natutour do bà ca-ve tay chân đắc lực của Hùng làm giám đốc. Ở khách sạn 14A Lý Nam Đế, không ai không biết bà giám đốc Quang từng làm ca-ve. Bà này có nhiều chiến tích đối với TC2, nếu so với Lã thị Kim Oanh thì bà này có tội tham nhũng gấp cả nghìn lần. Sở trường của TC2 là dùng mỹ nhân kế. Người đàn bà này được TC2 dùng để có thể mua đứt những cán bộ cao cấp từ Tổng bí thư trở xuống. Hiện nay bà ta là bồ ruột của Bộ trưởng bộ tài chánh Nguyễn sinh Hùng, nhờ đó, việc cấp vốn cho TC2 không mấy khó khăn. Ngoài bà Quang, có bà giám đốc khách sạn Liêu Giai ở Hà Nội, hiện là vợ ông Cục trưởng Cục Cán bộ thuộc Tổng cục chính trị, cũng không kém phần quyền thế. Đây là nơi mà Hùng thường xuyên lui tới, quan hệ, bàn bạc các âm mưu, nhất là thời kỳ chuẩn bị thăng quân hàm. Vì là một Tổng cục, ngang Bộ nên viêc tăng quân hàm ở TC2 không có bị trở ngại, đó là cơ hội để Hùng nâng cao uy tín của mình với cấp dưới.

Năm 1997 khi TC2 thành lập C15, Hùng được đề bạt làm cục trưởng. Trần quốc Minh, từ đội phó đội xe đề bạt làm cục phó, Trần chiến Thắng từ phó phòng hành chính cũng đề bạt lên làm cục phó. Cấp cục phó tương đương với thứ trưởng, có tiêu chuẩn xe con, hưởng mọi chế độ như cấp thứ trưởng. Thời gian được tăng chức, Hùng, Thắng chỉ mới là thiếu tá, riêng Minh là đại úy. Sự đề bạt tuỳ tiện này gây bất bình trong nội bộ sâu sắc, nhưng ai phản ứng bị điều chuyển công tác hoặc ép về hưu.

Cục 15 do Hùng phụ trách đã tiêu tốn của nhà nước không dưới 50 triệu USD, chủ yếu là tham nhũng, dùng tiền mua chuộc cán bộ, hủ hoá, mỹ nhân kế và bỏ vào các tài khoản cá nhân hoặc người nhà của Hùng. Khi tướng Nguyễn Nam Khánh gửi lá thư thứ nhất tố cáo TC2, lúc này Hùng đã là Tổng cục phó. Hùng và Vịnh đã đối phó bằng cách giải tán ngay C15, sáp nhập vô C16, toàn bộ vị trí chủ chốt C15 qua thay C16. Như vậy cũng chỉ là bình mới rượu cũ để giảm bớt áp lực. Nếu còn C15 sẽ phải thanh tra thì tội của Nguyễn Chí Vịnh và Phạm Ngọc Hùng bị tử hình vẫn còn nhẹ so với những gì tham ô, tham nhũng được.

Mặc dù tham nhũng, vô tài như vậy, Hùng vẫn lên như diều. Hiện Hùng giữ vị trí số 2 trong TC2, có thể thay thế Nguyễn Chí Vịnh để nắm giữ vi trị số 1. Trong thời gian tới, dự mưu là Nguyễn Chí Vịnh có thể được đề bạt lên thứ trưởng Quốc phòng, vì vậy Hùng thay thế Vịnh là hợp lý nhất, từ số 2 lên nắm số 1. Để đảm bảo không bị chống đối, mặt nội bộ Hùng thẳng tay xử lý cán bộ không tin cậy hoặc có biểu hiện phê phán nạn lộng quyền của Hùng và Vịnh.

Có khả năng sau Đại hội X, Vịnh được thăng cấp thượng tướng, Hùng lên trung tướng. Với số tiền khổng lồ có được từ tham nhũng, với TC2 nằm trong tay, Hùng và Vịnh đã khuynh đảo, nắm gáy hầu hết cán bộ lãnh đạo cao cấp ở trung ương qua sở trường của TC2 là dùng mỹ nhân kế, đút lót kế, tham nhũng kế, đe dọa kế để vô hiệu hoá sự chống đối từ Trung ương, bất kể từ đâu.

Trong khi đại đa số dân còn không có nhà ở, Hùng sở hữu 4 căn nhà khang trang ở ngay Hà Nội, chưa kể các tài sản khổng lồ khác. Bà con gia đình Hùng đều giữ các chức vụ béo bở trong các công ty bình phong của TC2 để mặc sức vơ vét, tham nhũng và thủ đắc các tài sản của nhân dân.

Trong TC2 còn có nhiều nhân vật tệ hại, cùng bè cùng cánh với Vịnh và Hùng. Chúng tôi sẽ thu thập tài liệu và lần lượt sẽ vạch mặt toàn bộ vây cánh của Nguyễn Chí Vịnh và Phạm Ngọc Hùng để nhân dân nhận rõ mặt trái của những kẻ giữ vị trí lãnh đạo trong Tổng cục 2.
Thế và Lực Tổng cụ 2 Trước Bối Cảnh Đại Hội X

Gần tới Đại hội X ( ĐHX), hiện tương tranh giành quyền lực để chuẩn bị đưa người của phe phái, vây cánh vô Trung ương, vô Thường Vụ Trung ương, vô
Bộ Chính trị càng lúc càng quyết liêt. Tổng Cục 2 (TC2) mở màn bằng đòn đánh vỗ mặt Tướng công an Nguyễn Khánh Toàn (1). Nguyễn Khánh Toàn là người nắm rất rõ về những tội ác của TC2, vừa giỏi chuyên môn lại vừa nằm trong ban thanh tra vụ T4. Nếu để Toàn điều tra thì việc này sẽ nguy hại, vì vậy TC2 phải tìm cách đánh đổ Toàn trước, ngăn không cho Toàn lọt vô Trung ương, thậm chí có thể cho về vườn để đàn em TC2 nắm Bộ Nội vụ, ém luôn vụ T4. Dư luận đang chờ đòn phản công của bên Công An, nhưng có lẽ còn lâu hoặc chẳng bao giờ có vì TC2 đã vô hiệu hoá các địch thủ của họ rồi.

Vụ án TC2 rành rành cả nước biết, trong Hội Nghị Trung Ương vừa rồi bà Võ Thị Thắng đã yêu cầu phải làm sáng tỏ nhân vật T4, vụ TC2 tạo ra tình báo ảo T4 để lũng đoạn Đảng mà cá nhân bà là nạn nhân.

Báo cáo của T4 về bà Thắng như sau: “Nhằm áp đảo những người tố cáo mình, bà Võ Thị Thắng đã tìm cách kết thân với nhiều cán
bộ chủ chốt ngành Công An, Nội Chính, Kiểm tra Đảng, Bảo vệ Chính trị Nội bộ. Bà Thắng là người tình của Nguyễn Khánh Toàn, thứ trưởng Bộ Công An. (Bản tin số 218 ngày 21/1/1999)

“T4 tiết lộ Võ Thị Thắng trước đây đã được Phủ Đặc uỷ tháo răng hàm trên (răng cửa) để thay vào đó răng giả đặc biệt được sử dụng khi cảm thấy hiểm nguy, có thể cắn vỡ răng này sau khi dùng lưỡi đẩy rơi ra, là một liều thuốc độc cực mạnh có thể giúp các điệp viên tự sát. ” (Bản tin ngày 21/3/1999)

Nhưng cả Đảng vẫn bình chân như vại, không ai dám nhúc nhích đặt vấn đề trừ mấy ông Tướng về hưu. Thậm chí mới đây cựu TT Võ Văn Kiệt viết nhiều bài đóng góp cho Đảng trước ngày Đại Hội X, nhưng không đá động gì đến TC2 cả.

Toàn bức tranh Đảng CSVN cho thấy Đảng nằm dưới quyền thống trị của TC2, gồm vây cánh gia đình Nguyễn Chí Vịnh (con trai Nguyễn Chí Thanh, con nuôi Lê Đức Anh), Vũ Chính (bố vợ Nguyễn Chí Vịnh), Lê Đức Anh và Đỗ Mười. Những Ủy viên Trung ương Đảng giữ vị trí then chốt đều đứng về phiá TC2 vì đã bị mua chuộc hoặc bị khống chế. Nếu có ít UV còn đứng ngoài vòng khuynh đảo của TC2 thì vẫn lo sợ, không những cho chức vụ, bổng lộc mà ngay cả tánh mạng của họ nữa.

Người của TC2 đã được cấy trải dài để nắm tin tình báo trong hết các cơ quan Đảng và nhà nước cấp Xã, Huyện, Quận, Tỉnh…., ngay cả
Bộ Nội Vụ, văn phòng Thủ tướng, các Bộ và Chính phủ TC2 cũng không chừa.

Vụ Nguyễn Thái Nguyên là thí dụ điển hình. Ông Nguyên từng làm phụ tá đắc lực cuả Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Tuy nhiên Lê Đức Anh không ưa ông Kiệt và người bên phiá văn
phòng Thủ tướng nên đã dùng TC2 để ra tay. Buớc đầu họ dàn dựng hồ sơ giả của Võ Thị Thắng để kích bác vợ của Nguyễn Thái Nguyên đánh bà Thắng. Bà Nguyên bi thua, TC2 nhảy vào cuộc tìm cách giúp bà Nguyên để kéo Nguyễn Thái Nguyên trở thành tình báo cho TC2.

Sau khi bán mình cho TC2, Nguyễn Thái Nguyên đã đánh cắp nhiều tài liệu từ phiá văn
phòng ông Kiệt cho TC2. Dưới chỉ đạo của Lê Đức Anh và TC2, Nguyên đã sử dụng các tài liệu mật để TC2 khống chế Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu qua vụ việc ông liên hệ với bà Đặng Hà (con gái ông Đặng Kính), mà theo dư luận cho là bà Hà dùng mỹ nhân kế theo chỉ đạo của Lê Đức Anh và TC2 nhằm dứt điểm ông Phiêu. Nguyễn Thái Nguyên đã cung cấp tài liệu để Lê Đức Anh và TC2 phanh phui vụ án Ngô Xuân Lộc, người của ông Kiệt. Mục tiêu chính vẫn là chặt hết vây cánh để ông Kiệt mất uy tín, đưa người thân của TC2 nắm ghế thủ tướng. Mặc dù sau đó bên ông Kiệt đã phản công, Bộ Nội Vụ vào trận và đã bắt Nguyễn Thái Nguyên với tội trạng rất vu vơ. Hiện nay Nguyên đang ngồi tù… nhưng vụ án này chưa bao giờ đưa ra công luận.

Đối với TC2, ngay cả Thủ tướng,
Tổng Bí thư còn bị TC2 đưa vào xiếc thì những UV Trung ương thường trong Đảng CSVN hiện nay phải biết sợ, biết thân biết phận, im lặng để giữ ghế và tánh mạng. Vì chính bản thân tất cả những UV này vị nào tay cũng dính chàm, hồ sơ tham nhũng của họ bị TC2 nắm hết, chỉ cần tỏ thái độ phản đối thì hồ sơ sẽ được bạch hoá.

Sở trường của TC2, do Nguyễn Chí Vịnh chỉ đạo là mỹ nhân kế và mượn dao giết người.Từ một tên lưu manh đi làm chính trị, Nguyễn Chí Vịnh chuyền dùng gái, tiền lôi kéo cán
bộ để hủ hoá, ăn nhậu, chơi bời. Vịnh âm thầm cho đàn em quay phim, chụp ảnh những cảnh ăn chơi xa đoạ để giữ làm hồ sơ, buộc nhiều cán bộ lãnh đạo cao cấp phải "há miệng mắc quai", cúi đầu chịu trận cho Vịnh và TC2 điều khiển.

Trong các cuộc giao ban, Vũ Chính thường xuyên báo cáo nội
bộ là tài liệu UV này, lãnh đaọ nọ đã được đài báo phản động nước ngoài đánh phá. Thực chất, người trong cuộc đều biết chính TC2 cung cấp tài liệu này để đánh ngược về, nhằm hạ uy tín bất cứ ai không cùng phe của TC2.

Dĩ nhiên đòn này, không chỉ có TC2 biết khai thác mà ngay cả bên
Bộ Nội Vụ cũng đưa hồ sơ ra ngoài. Hồ sơ của Nguyễn Chí Vịnh, Vũ Chính đã từng được những bàn tay bí mật gửi ra để phản công lại TC2. Tuy nhiên trong trận chiến tranh giành quyền lực này, bên nào vây cánh dày, lực mạnh đã lộ rất rõ.

Nói về TC2 thì không thể không nhắc tới khả năng tài chánh của họ. Chỉ riêng ngân sách dành cho TC2 đã bằng gần nửa ngân sách của
Bộ Quốc Phòng. Đó là chưa kể các tài khoản thu nhập khác từ kinh doanh bất hợp pháp và hợp pháp, từ đầu tư trong lẫn ngoài nước. Chỉ việc TC2 dám chi ra gần 10 triệu dollars để thiết lập một hệ thống tổng đài rà quét sóng máy điện thoại, dùng cho mục đích theo dõi các điện đàm từ máy di động đã cho thấy khả năng của họ. Máy quét sóng này không chỉ dùng để nghe lén những chiến sĩ dân chủ mà luôn cả đối tượng của TC2 bao gồm đảng viên lãnh đạo cao cấp không thuộc vây cánh TC2, người của phiá Bộ Nội Vụ, Chính phủ và Quân đội v.v…

Quyền lực của TC2 vô cùng, thậm chí được công nhận có thể giả danh bất cứ cơ quan nhà nước nào khi thi hành công vụ. Pháp lệnh Tình báo và Nghị định 96/CP do Võ Văn Kiệt ký, ghi rõ:

Điều 21, chương
2: “Tổng cục tình báo (TC2) thuộc Bộ Quốc phòng trong trường hợp cần thiết được sử dụng danh nghĩa và phương tiện làm việc, con dấu hoặc các giấy tờ giao dịch của các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, …”

TC2 cũng không từ nan bất cứ hành vi tàn độc nào kể cả thủ tiêu. Từ thời ông Hồ Chí Minh còn sống, các cơ phân an ninh đã giết bà Nông Thị Xuân, người đầu ấp tay gối của ông Hồ với sự chấp thuận của Bác. Vụ ông Đinh Bá Thi, đại sứ Việt Nam ở Liên Hiệp
Quốc bị triệu về và cho xe giả dạng tai nạn lưu thông cán chết trên quốc lộ 1 gần khu vực Bình Tuy, tỉnh Thuận Hải. Về phía quân đội đã thường xảy ra hàng loạt vụ thủ tiêu: vụ độc tử ông Đại tướng Hoàng Văn Thái, Chu Văn Tấn, Lê Trọng Tấn, cái chết của tập thể tướng lãnh bị giết trong chuyến bay sang “Lào”, cái chết của tập thể Đoàn cán bộ cao cấp quân đội khi bay ra bán đảo Sơn Trà, cái chết của Đinh Đức Thiện, em Lê Đức Thọ…. đã làm lạnh gáy những tướng lãnh quân đội nào dám làm phản. Hình như đối với giới chức trong quân đội, cách gọn nhất vẫn là thủ tiêu thay vì bắt giam, vu cáo bằng các tội hình sự hoặc cho phục viên, vì TC2 không yên tâm, sợ về lâu dài có thể sinh hoạ. Chính vậy mà từ xưa đến giờ, giới quân đội nếu có dấu hiệu bất mãn thì thường hay bị độc tử.

Sau cái chết của hai đại tướng Hoàng Văn Thái và Lê Trọng Tấn. Đầu năm 1987, Lê Đức Anh được bầu vào
Bộ Chính trị rồi làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Cũng trong năm này, Trung tướng Phan Bình, người từng nắm giữ Cục 2, (tức Cục Quân báo - tiền thân TC2) khi Anh cho về hưu cũng đã bị ám sát chết đầy bí ẩn tại nhà nghỉ Cục 2 ở Sài Gòn.

Việc thủ tiêu, ám sát hoặc đầu độc trong Đảng CSVN phổ thông đến nỗi khi Lê Duẩn vừa mới qua đời thì gia đình con cháu họ Lê đã khóc lóc, lo sợ bị cánh Lê Đức Thọ ám hại. Lê Đức Anh khi lên cơn đau tim, đưa vô nhà thương đã không dám uống thuốc vì sợ có kẻ bỏ thuốc độc. Lê Đức Anh đã từng giết không biết bao nhiêu người rồi nên như Tào Tháo, nhất cử nhất động nhìn đâu cũng thấy kẻ thù.

Đối với những UV như Trần Đức Lương, Phan Văn Khải, Nông Đức Mạnh, Phạm Thế Duyệt, Nguyễn Văn An, Phạm Văn Trà, Nguyễn Khoa Điềm, Trương Tấn Sang v.v…. những con bài này đều nằm trong vòng kiểm soát của TC2 và Lê Đức Anh. Chính Anh tạo ra thì Anh cũng có thể lệnh cho TC2 đạp xuống dễ dàng.

Vụ án con ông Phan Văn Khải bắn chết con ông Phạm Thế Duyệt (
2) vẫn chưa đưa ra ánh sáng công luận. Hai ông trời con này giành độc quyền buôn lậu nên đã ra tay sát thủ. Chẳng hạn trường hợp bà Trương Mỹ Hoa (3) có con rể can tội cướp của giết người nhưng vẫn được che chở, đang sống ở nước ngoài thay vì làm áp lực dẫn độ về nước. Pháp luật chỉ nghiêm minh đối với dân nghèo, đối với con ông trời thì pháp luật chưa lên tiếng. Tuy vậy, nếu ông Khải, bà Hoa mà ngấm nghé theo vây cánh làm phản thì vụ án được đưa ra ánh sang ngay lập tức.

Trương Tấn Sang thời làm bí thư Thành ủy Sài Gòn đã can tội mua dâm và ép dâm một nữ đảng viên ở Quận 3. Phạm Thế Duyệt thì lúc làm Bí thư Thành Ủy Hà nội đã chiếm đất ở đê Yên Phụ xây biệt thự trái phép. Riêng ông Nguyễn Văn An, chủ tịch
Quốc hội đã từng tham nhũng hàng tỷ đồng thời nắm chức Trưởng ban tổ chức Trung ương, đê tiện nhất là vừa làm chủ tịch ban bầu cử, lại vừa ra ứng cử.

Tóm lại, mỗi người một hoàn cảnh riêng nhưng cái chung đều nằm trong lòng bàn tay của TC2 hết. Khi vui trái ấu cũng tròn, khi TC2 nổi giận thì ông Khải, bà Hoa, ông Sang hay bất cứ UV Trung ương Đảng CSVN nào cũng có thể bị TC2 cho ngậm bồ hòn ngay lập tức.

Tình hình đấm đá nội
bộ Đảng CSVN sẽ kéo dài cho đến khi phiá TC2 bị suy yếu vì nhiều lý do bất ngờ, hoặc vì chính nội bộ tự xâu xé nhau, hoặc phía Lê Đức Anh không còn khả năng bảo kê cho TC2 nữa. Cả hai tình huống, nếu Công An và Chính phủ thoát ra vòng kiểm soát của TC2, hai bên sẽ phối hợp nhau tiêu diệt TC2. Trong bối cảnh đó, kẻ gieo gió sẽ bị gặt bão, mạng của bố con Nguyễn Chí Vịnh, Vũ Chính và đồng bọn chạy lên trời cũng không thoát khỏi lưới thù. Vì ý thức được tình trạng tối nguy hiểm của mình nên cha con Vũ Chính, Chí Vịnh và TC2 đã bằng mọi giá, “tiên hạ thủ vi cường”, ra tay trước với mọi thủ đoạn để triệt hạ hết vây cánh của Bộ Nội Vụ và Chính phủ.

Từ đây đến ĐHX sẽ còn lắm chuyện động trời, sẽ có UV tự nhiên đột tử, sẽ có lãnh đạo bị tố cáo tham nhũng, hủ hoá, quan hệ phản động, tình báo CIA..v.v…Dù thế nào thì cái ghế TBT rất khó lòng thoát ra khỏi ảnh hưởng của TC2, các UV có được lọt vô trong
Bộ Chính Trị và Ban Thường vụ cũng sẽ không có những khuôn mặt mới nào sáng giá….nếu có thì không loại trừ khả năng những khuôn mặt này đã bị TC2 cấy sinh tử phù để làm phái khiển, để TC2 tiếp tục đứng trên đầu trên cổ Đảng CSVN.

(1) Nguyễn Khánh Toàn - Điện Thư 50, 51 - CLBDCVN
(
2) Phạm Thế Duyệt, Chủ tịch uỷ ban TƯ mặt trận tổ quốc VN.
(3) Trương Mỹ Hoa, Phó chủ tịch nước.

Vương triều Vũ Chính: Tổng cục 2  

số 1: Vương triều Vũ Chính

Năm 1995, lợi dụng sự quen biết ở mặt trận 719 với một số cán bộ cao cấp của Ðảng và Quân đội ta, ông Vũ Chính đã luồn lọt để nhận ngay quyết định Tổng cục trưởng TC II thay ông Nguyễn Như Văn về hưu (thế mới đau). Kể từ đây, lần đầu tiên trong lịch sử Quân đội ta, TC II được đặt dưới sự thống trị của gia đình ông Vũ Chính, cũng kể từ đây mọi mưu mô sảo quyệt được ông Vũ Chính đưa ra thi thố nhằm thiết lập hệ thống lãnh đạo kiểu phong kiến ở TC II .

Nhìn lại trên 6 năm làm Tổng cục trưởng, ông Chính làm được gì?

Ðầu tiên, ông ta thâu tóm quyền lực một cách tinh vi, xảo quyệt. Tại đại hội Ðảng bộ lần thứ 13 của TC II, lấy quyền là Tổng cục trưởng, ông vận động một số đồng chí là Ðảng ủy viên Tổng cục còn trẻ có năng lực (như: Tư Phi, Thanh Lân... ) tự nguyện xin rút khỏi Ðảng ủy viên Tổng cục để đưa một số ông già như: Ba Quốc, Anh Lân, Tiến Cung vào Ðảng ủy. Với mục đích già hoá Ðảng ủy để có thời gian sắp xếp nhân sự sau này (về số này chỉ làm được 1,2 năm sau đó nghỉ hưu). Cũng tại Ðại hội này, ông vận động cho phò mã Nguyễn Chí Vịnh vào Ðảng ủy. Nhưng Ðại hội đã rất sáng suốt nên chỉ có 2 phiếu đề nghị là của ông Chính và con rể tự bỏ cho mình. Sau đó, trong suốt thời gian lãnh đạo TC II, ông lần lượt vu oan gây hoạ cho một số đồng chí cán bộ cao cấp có thể cản đường tiến của con rể, mà đầu tiên là chiếm chức Cục trưởng cục 12, ông ta cho một loạt cán bộ của Cục 12 (số này đã có bề dày kinh nghiệm và thành tích) về hưu. Sau khi đưa con rể lên Cục trưởng, bước tiếp theo là tinh lọc các Cục trưởng, Tổng cục phó có thể cản đường như ông: Tiến Cung, Quang Cát..., để nhanh chóng đưa con rể lên. Có lẽ đau nhất cho TC II trong suốt quá trình đánh Mỹ không có cán bộ cao cấp nào phạm sai lầm khuyết điểm, thì đến đời ông Chính, một đại tá (Ðồng chí Chấp, Cục phó cục 11) bị ông ta vu cho là làm việc cho địch, để đày đoạ đồng chí này, rồi từ vụ này bôi nhọ uy tín đồng chí Như Văn, Trần Tiến Cung, Tống Trần Thuật, Vũ Thắng... Những bậc lão thành của ngành Tình báo quân sự Việt Nam, mà trước đây ông ta là cấp dưới bị họ vạch mặt những thủ đoạn sảo quyệt, ma giáo của mình.

Tiếp tục đưa hoàng tử Ðặng Vũ Dũng từ lao động nước ngoài về phong quân hàm thượng uý để rồi đưa lên trưởng phòng, đưa công chúa Ðặng Thị Mai vào làm cán bộ mật hưởng quân hàm đại úy, Hoàng hậu Nguyễn Thị Nhẫn thì thật kinh khủng, đạo diễn cho chồng đưa toàn cán bộ ở Thái Bình lên lãnhđạo TC.
Ðể có thể kéo dài thời gian lãnh đạo TC II, ông ta cho tay chân làm giả giấy khai sinh, rút tuổi khai sinh từ 74 xuống 64 (tự trẻ hoá mình, già hoá cán bộ xung quanh).

Trong chỉ đạo nghiệp vụ thì thường xuyên ca tụng mình là người lãnh đạo sáng suốt, nhưng toàn dùng thủ đoạn để vu khống một số cán bộ cao cấp của Ðảng, Nhà nước, Quân đội ta, nhất là số cán bộ không chịu thần phục ông Chính là cố vấn, để rồi những thành tích, chiến công là của TC II còn những thất bại là của lực lượng an ninh.

Ðến nay ông ta đã có quyết định thôi Tổng cục trưởng (mà ông ta chỉ thôi với điều kiện là phò mã của ông là Nguyễn Chí Vịnh nối ngôi) nhưng vẫn chưa chịu bàn giao để còn nấn ná vơ vét thêm cũng như tìm diệt nốt một số cán bộ trung kiên của Ðảng ở TC II. Sắp xếp tới đây lại một tình huống nữa là ông ta tuy thôi Tổng cục trưởng, nhưng sẽ là thái thượng hoàng như ông thường nói: Tôi nghỉ nhưng vẫn tham gia lãnh đạo, chỉ đạo TC.

Một con người mệnh danh là ''Gooc Ba Chốp'' của ngành Tình báo Quân sự Việt Nam, rồi ông ta sẽ tiếp tục ''cải tổ TC II như thế nào?'', đây là một đại hoạ cho TC II và đất nước ta. Ðồng thời cũng là sự ''vĩ đại' của vương triều Vũ Chính.

số 2 .- Hoàng tộc họ Ðặng

Lại nói về Vương triều Vũ Chính, sau khi thâu tóm toàn bộ quyền về tay mình thì Hoàng tộc họ Ðặng bắt đầu lộng hành, đầu tiên phải kể đến Mẹ Nguyễn Thị Nhẫn hoàng hậu của Vương triều, bà Nhẫn trước đây chỉ một con buôn bình thường như bao nhiêu con buôn khác. Nay thấy chồng và con rễ đang phất nhảy sang buôn chính trị, buôn tước, bán danh. Trước tiên là phải trả thù các bà vợ của những người chỉ huy trước của bà như vợ ông Như Văn, vợ ông Tiến Cung. Bà ta súi bẩy chồng cho vợ ông Như Văn thôi chức giám đốc khách sạn Hoàng đế, vợ ông Cung thôi chức giám đốc chi nhánh miền trung của Tổng công ti Ðetéctua, rồi súi chồng cho Hiếu, vụ trưởng tài chánh, nghỉ hưu . Sau đó lại giật dây chồng tổ chức thanh tra liên tục, bới lông tìm vết các đơn vị này . Một tháng bốn lần bay ra, bay vào Thành Phố Hồ Chí Minh - Hà Nội với chức danh là cán bộ TC II, rồi được ông Chính cho thanh toán toàn bộ tiền máy bay . Thông qua chồng và con rễ, gợi ý cục tình báo Hoa Nam Trung Quốc mời sang Trung Quốc chữa bệnh (nhưng ai biết bà ta trao đổi với cục tình báo Hoa Nam những gì để khỏi bệnh).

Khi về Việt Nam tiếp tục mua danh bán tước, sau khi gợi ý với một số cán bộ cùng quê Thái Bình ở TC là muốn thăng quan tiến chức thì làm việc với bà ta, bằng cách bà ta sẽ nói với chồng chia cho các chức Cục trưởng, cục phó, với điều kiện đưa tiền hoặc vàng thanh toán (100 cây một chức) thì viết giấy giao tại nhà Thành phố Hồ Chí Minh cho người bà ta giữ hộ. Còn nhiều chuyện kinh khủng nữa...

Hoàng tử Ðặng Vũ Dũng, ngay từ bé là một thiếu niên hư hỏng học không đậu lớp 12 được bố tổ chức mua bằng lớp 12 rồi cho đi xuất khẩu lao động. Trong thời gian xuất khẩu lao động không chịu tu chí làm ăn bị đưa về nước sớm. Ông Chính lệnh cho con rễ (khi đó phụ trách kinh tế của cục 12) làm hồ sơ chuyển cán bộ mật rồi ông đề nghị phong luôn quân hàm thượng uý mà chưa qua một ngày làm lính hay đi học sỹ quan. Sau đó lại giao cho làm giám đốc công ti xây dựng Hồng Bàng. Công ti này đẻ ra không xây dựng được gì ở ngoài khu vực TC II mà chủ yếu là nhận các công trình xây dựng sửa chữa nhà cho cục 12 và các đơn vị phía nam. Ðặc biệt là khi cần sửa chữa nhà riêng ông Chính, ông Vịnh thì công ti lại tổ chức đập nhà các ông này để sửa chữa, kinh phí sửa chữa được quyết toán qua TC. Thế là lãi thì cha con ông Chính hưởng, lỗ thì quân đội chịu . Do đó trong trong một thời gian ngắn công ti Hồng Bàng đã thua lỗ lớn, thấy vậy ông Chính lại điều Hoàng tử đi về làm nghiệp vụ cũng theo cách tiến cử phò mã. Dũng hoàng tử thăng quan tiến chức rất nhanh. Năm 1998 được đề nghị phó phòng thì tháng 5 năm 2000 được đề nghị cục phó cục 12. Tháng ngày ba bố con mỗi người ngự trên một chiếc Craow (xe mà thủ tướng quy định chỉ có bộ trưởng mới được đi) để đi vi vu đây đó. Khốn nạn nữa là ông Chính và phò mã tuyên bố ''Dũng hoàng tử'' là nguồn lãnh đạo TC II năm 2002. Những người này chắc sẽ lãnh đạo ''phá'' TC II tốt hơn thế hệ ca anh.

Còn Công chúa Ðặng Thị Tuyết thì sao ? Xin thưa cũng rứa . Công chúa chỉ hơn anh trai là học hết đại học tại chức (mua bằng) ngoại ngữ. Với uy quyền của mình ông Chính phong chức đại uý, cán bộ B rồi đưa vào hội liên hiệp hữu nghị Việt Nam với nước ngoài được hưởng hai lương (Một lương ông Chính trả, một lương hội hữu nghị trả). Như vậy thu nhập nghiễm nhiên bằng một ông trung tá phục vụ quân đội 25 năm. Nhưng đây là lý do để sau này rút về thì phong luôn trung tá cho ''hợp lý''. Ði đâu ? làm gì? Công chúa chỉ cần gọi điện là Huy cục trưởng cho xe, hàng tháng còn được chi 200 ngàn xăng xe và hoạt động phí để đi chơi. Ðấy ngẫm mà xem!    Hoàng tộc họ Ðặng có vĩ đại không?

số 3 - Phò mã Nguyễn Chí Vịnh

Ðể củng cố thế lực dòng họ Ðặng cần phải tìm một người có thể để thiên hạ chấp nhận, họ Ðặng đứng đầu là ông Chính sau khi họp gia đình quyết định con gái trưởng Ðặng Thị Ngọc phải gả vào một dòng họ trâm anh thế phiệt.

Phò mã Chí Vịnh được gả đưa đẩy nếu đồng ý lấy con gái tao sẽ được nhường ngôi . Thế là Vịnh cắn câu, vì xét cho cùng thì cũng hết xác, vì vậy, câu ca dao vận vào đây hoàn toàn chính xác với Vịnh là: "cha làm thầy con đốt sách".

Với ông bố đẻ là một gương sáng bao nhiêu, thì Vịnh ta lại là một kẻ dốt nát, lừa thầy phản bạn bấy nhiêu . Ngay từ khi còn đi học đã thường xuyên lưu ban, do vậy, năm 1976 được đưa lên trường văn hoá Lạng Sơn để học tập, rồi nhờ các đồng đội cũ của bố được vào trường đại học Kỹ thuật quân sự. Tại đây lại không chịu học tập rèn luyện, đi ăn cắp trấn lột bị đuổi học, lại được các bạn của bố đỡ cho vào học sĩ quan thông tin. Ra trường không nơi nào dám nhận, cuối cùng rất khó khăn ông Như Văn mới nhận vào cục II . Tại đây thời gian đầu (chưa làm phò mã) cũng như bao sĩ quan khác đến hẹn thì lên quân hàm, nhưng từ ngày lọt vào dòng họ Ðặng thì được ông Chính "bồi dưỡng" lên như diều, trình độ thì có hạn, nghiệp vụ thì chưa biết làm, ấy mà ông Chính bèn lấy thành tích của người khác tô son trát phấn cho con rễ. Từ khi làm phò mã chưa làm việc gì ra hồn, được phân làm giám đốc Tôserco (mua bán vũ khí) thì toàn mua hàng đều cho quân đội, trong đó phải kể đến hai chiếc Mi-8, 6 chiếc Su-27, 2 chiếc tàu chiến, về Việt Nam toàn bộ phải đại tu lại, không có lý lịch bay . Làm chủ tịch hội đồng quản trị liên doanh khách sạn 128 Thuỵ Khuê Hà Nội thì không làm ăn được gì, vỡ hợp đồng, ấy vậy mà từ khi làm phò mã thì thường xuyên được thăng quân hàm trước niên hạn. Ðại uý lên thiếu tá sớm 1 năm, thiếu tá lên trung tá sớm 1 năm, trung tá lên thượng tá sớm 1 năm, thượng tá lên đại tá sớm 2 năm. Bên cạnh việc thăng cấp là thăng chức, phó phòng năm 95, trưởng phòng năm 96, cục phó năm 97, cục trưởng năm 98, tổng cục phó tháng 7-99, nay đã có quyết định tổng cục trưởng (tháng 6-2000) thật đúng là lên như diều . Ðể lên nhanh như vậy ông Chính đã không từ một thủ đoạn nào tranh công đổ tội cho người khác (đón xem các số sau). Học hành đào tạo thì không đến nơi đến chốn, ông Chính lệnh cho phòng cán bộ cho Vịnh theo học một số lớp ngắn hạn 3-6 tháng, nhưng Vịnh cũng học cũng không ra hồn, dùng quyền dùng tiền để mua bằng.

Ðể rộng đường công luận soi xét, khoan hãy tính những việc làm trước đây mà chỉ tính từ khi phò mã ra Hà Nội nhận Tổng cục phó làm được những gì? Xin thưa: Toà nhà 3 tầng ở 34A Trần Phú, Hà Nội, vừa mới đầu năm 99 xin kinh phí sửa chữa hết 700 triệu đồng chưa kịp khô vôi thì cuối năm lại quyết định chi vào 4 tiû để đập đi xây lại . Tiền ở đâu ra ? Tiền thuế của bà con nông dân. Sau đó để dễ bề tổ chức ăn chơi, Vịnh ta cho xây một số nhà gọi là mật như ở Cổ nhuế, Gia lâm, Thanh Xuân... mỗi nhà trị giá khoảng 800 triệu để chiều thứ bảy, chủ nhật Vịnh ta tổ chức ăn chơi đàn đúm. Chưa kể khi vào nhà hàng đập phá như tối 10-8-2000, Vịnh kéo gần 30 chiến hữu đến quán Thái Ba (10 Hồ Xuân hương), khi đứng dậy ra về mới hết có gần 20 chai rượu ngoại khoảng 8 triệu đồng chưa kể đồ ăn. Từ ngày được giao tổng cục phó nghiệp vụ thì chỗ nào thân quen như cục 15 và 12 mới có nhiều kinh phí. Ngoài ra những chỗ này hàng tuần phải luôn tổ chức cho phò mã ăn chơi . Thế còn chưa đủ, 2 tháng một lần phò mã lên Vĩnh Yên (nơi học trước đây) để thăm người yêu cũ, mỗi lần người yêu lại được nhận 5 triệu . Mặt khác, thông qua chị gái làm ở hàng không để cặp bồ với nhiều em tiếp viên, số này được đưa vào nhà mật để phò mã giao nhiệm vụ...

Ông Chính thường xuyên leo lẻo: Cháu nó là con cán bộ cao cấp (hỏi rằng ở tổng cục II có bao nhiêu cán bộ cao cấp) phải nâng đỡ cháu... Tôi sẽ đưa cháu làm tổng cục trưởng, đại hội 9 đưa cháu vào BCH TW, đến giữa nhiệm kỳ vào Bộ Chính trị, phải để cho cháu nên tướng.

Hỏi rằng: những người này sẽ đưa TC II về đâu, nếu vào BCH TW thì nó sẽ đưa đất nước đến đâu . Thưa rằng bàn tay sao che lấp mặt trời . Ðấy Vương triều Vũ Chính vĩ đại thay.

số 4 - Quần thần của vương triều .

Sau khi đã củng cố được quyền lực, thì nay ông Chính và con rễ bắt đầu thi thố. Ðầu tiên là phò mã tiến cử với vua cha một số đệ tử (bạn đàn đúm) trước đây . Ðầu bản phải kể đến "Hùng Tút", không phải ngẫu nhiên được gọi là "Hùng Tút" vì đã được phò mã "tút" lại toàn bộ để đưa lên. Cùng học với phò mã ở Ðại học Kỹ thuật quân sự nhưng do lười học, trộm cắp nên Hùng bị đuổi học (hết năm thứ nhất), sau đó Hùng "tút" xin đi xuất khẩu lao động ở Nga, lao động được ba năm nhưng không chịu làm ăn chân chính nên bị trục xuất về nước. Theo luật sỹ quan Quân đội nhân dân Việt Nam thì những ngườI đã lao động nước ngoài 2 tới 3 năm trở lên thì không được tuyển làm sỹ quan. DướI sự chỉ đạo của ông Chính, Hùng tút được phò mã nhận vào làm lái xe cho mình (ở Toseco cũ) phong quân hàm thượng uý. Hùng tút đi mua bằng tốt nghiệp đại học kinh tế quốc dân thành phố Hố Chí Minh đem vào nộp (cứ cho kiểm tra lại bằng nhân dịp Bộ đại học đang kiểm tra lại bằng mà xem có phải giả không?). Chưa một ngày chỉ huy từ cấp tiểu đội, chưa biết tập hợp đội ngũ thế mà phò mã đưa Hùng tút lên như diều . Nay đã là cục trưởng cái gọi là Cục Khoa học Công nghệ Tình báo, và đang được đề nghị Tổng cục phó. Thực chất là để phò mã dễ sai bảo và cùng nhau chia kinh phí hoạt động của TC II . Ngoài ra còn những ai nữa, đó là "Thắng con", Cục phó cục 15. "Tân xoan", Cục phó cục 12. "Minh con" Cục phó cục 15... Toàn loại vô học chưa một ngày chỉ huy bộ đội, không có một thành tích gì trong hoạt động nghiệp vụ, chỉ có tài uống rượu đàn đúm gái gú với phò mã.

Loại cán bộ thứ hai là những ai ? Là những người cùng quê Thái Bình, đồng hương với Hoàng hậu Nguyễn Thị Nhẫn. Do đâu họ có phúc như vậy ? Vì những người này với danh nghĩa đồng hương, biết rõ gia cảnh của bà Nhẫn ở Thái Bình, họ muốn được phúc thì phải có tiền. Vì mẹ Nguyễn Thị Nhẫn là con buôn chính trị. Ðiểm lại các Cục hoạt động như 12, 11, 15, 16, chính trị, hậu cần... (đây là chưa kể đến các trưởng phòng ở các cục) đều là dân Thái Bình quê bà Nhẫn. Vừa qua lại tiếp tục điều chỉnh một số chức danh, tất cả số được đề bạt đều là những người của phò mã hoặc người thân của Vương triều Vũ Chính. Thực chất những việc này để làm gì? Ðây nằm trong ý đồ chiến lược bẩn thỉu của ông Chính nhằm tạo ra một lớp che chắn cho phò mã và gia đình ông ta, trước mắt là để với đại hội Ðảng bộ TC vào tháng 10, nhằm bảo đảm cho phò mã kiếm đủ phiếu vào Ðảng ủy TC và đi dự Ðại hội đảng bộ toàn quân, và xa hơn nữa là vào BCH TW khoá 9 này (chiến lược cao chưa?).

Ông Chính cũng không từ một thủ đoạn nào để sơn tút cho con rễ và bộ sậu . Ông tìm mọi cách để đề nghị cho phò mã làm anh hùng, bên cạnh ấy là lấy thành tích của số cán bộ tập kích sân bay Utapao làm thành tích cho Cục 15 của Hùng tút, nhưng rất may không phải muốn là được. Một cái vả vào giữa mồm ông Chính sau khi Nhà nước công bố danh hiệu các đơn vị và cá nhân anh hùng (15-8-2000) vừa qua .

Còn đối với con em cán bộ cao cấp trong TC thì sao ? Con trai đồng chí Nguyễn Như Văn bị kiểm không cho tham gia các hoạt động của TC, con trai đồng chí Trần Tiến Cung thì đưa đi sứ quán Úc, con trai đồng chí Trí Anh cho ngồi chơi xơi nước, con trai đồng chí Tống Trần Thuật cũng không thoát khỏi số phận như vậy, con trai đồng chí Cát được gợi ý lên làm cán bộ B. Nghe nói con trai một đồng chí cán bộ cao cấp quân đội, có thành tích, có năng lực được ông Chính "lưu ý" cho đi học tập, đào tạo dài hạn, rồi ông Chính làm công văn không nhận về, vậy thì nay mai không ai dám đi học nữa . Thế mà ông Chính suốt ngày nói cháu Vịnh là con cán bộ cao cấp phải lưu ý xây dựng, thế thì giữa lời nói và việc làm của ông Chính như vậy có đúng là người lãnh đạo chưa ? Sắp tới đây ông Chính lại chuẩn bị một cuộc thanh lọc nữa để giúp vợ thu hoạch đợt vét trước khi nghỉ hưu . Ông ta luôn gợi ý hoặc doạ dẫm cán bộ cấp dưới sẽ cho về nghỉ. Vì vậy hiện nay cán bộ các cấp ở TC II luôn lo lắng không dám làm việc, vì không biết ông Chính sẽ sử dụng mình như thế nào .
Thử ngẫm mà xem chiến lược cán bộ của Vương triều Vũ Chính Vĩ đại không?
số 5.- Thảo dân đòi công lý

Chúng tôi những người thảo dân (nạn nhân) của Vương triều Vũ Chính lên tiếng đòi hỏi sự công lý tại TC II - BQP. Xin nêu ra một số vụ việc chính để các cơ quan công lý, dư luận xã hội rõ thêm về những vụ việc làm sai trái, vô học của Vương triều Vũ Chính.

1- Tham ô, tham nhũng: Tuy Vương triều Vũ Chính là vô học, dốt nát nhưng sự tham ô, tham nhũng vô cùng tinh vi, xảo quyệt và có hệ thống, nhất là những ai có quan hệ với vương triều họ Ðặng. Ðầu tiên phải kể đến hoàng tộc họ Ðặng, đứng đầu là ông Vũ Chính. Sau khi cho về hưu, nghỉ việc đi học, với một số cán bộ dám mạnh dạn đấu tranh, mà ông ta gọi là thành tích này như Ðinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, thì việc tham nhũng được triển khai mạnh mẽ. Căn nhà ông Vũ Chính đang ở trước đây được bán đi, bán lại nhiều lần cho TC dưới danh nghĩa là nhà mật, khi ông ta là cục trưởng cục 12 đã quyết toán một lần. Ðến đời ông Ba Quốc lại được bán lại lần nữa, và đến đời phò mã lại được thanh lí một lần nữa . Tổng số quyết toán 3 lần khoảng 500 nghìn USD.

Sau đó mượn cớ xây dựng nhà hoạt động ông ta làm công văn xin thành phố Hồ Chí Minh hàng chục căn nhà rồi đem bán cho dân, việc vỡ lỡ khi thanh tra BQP vào thanh tra (sau này một đồng chí thanh tra của TC II về không tán thành cách làm việc này bị ông Chính cho chuyển công tác khác). Những căn nhà còn lại được đứng tên gia đình ông Chính, con rễ, sau đó được công ti Hồng Bàng (do con trai làm giám đốc) lấy kinh phí nghiệp vụ sửa chữa rồi cho người nước ngoài thuê, tiền cho thuê nhà thu được đều do bà Nhẫn (vợ ông Chính) quản lí, việc này vi phạm nghiêm trọng quy định của Cục bảo vệ - An ninh Quânđội .
Với lý do địch hoạt động ngày càng mạnh để xin kinh phí hoạt động, do đó năm nào TC II cũng được rất nhiều kinh phí hoạt động hơn các TC khác của BQP. Kinh phí này được chi vào đâu ? Xin thưa rằng: Chi vào các khoản sau:

- Ðoàn tàu đánh cá, một cảng cá tại Vũng Tàu hết 5 triệu USD, sau BQP phát hiện ra lại được thanh lí một lần nữa .

- Mua sắm bất động sản tại một số thành phố lớn như: nhà cửa, xe cộ... số này mỗi năm hết khoảng 2 triệu USD. Nhưng thực chất không phát huy hiệu quả gì.

- Mua sắm trang thiết bị (toàn đồ cũ) ô tô, xe máy; chi tiếp khách, chi nghiệp vụ (giả), chi cho các chuyến đi du lịch nước ngoài ... mỗi năm khoảng 2 triệu USD.

Chỉ đơn cử một cuộc hộI thảo, một nhân vật quay vêdio để đưa lên thông tin đại chúng, thời gian một ngày được tặng 200USD, còn những ngườI khác thì sao? Chủ tịch đoàn gồm ông Chính, con rễ... mỗi người 500 USD.

Công ti Hồng Bàng (của con trai), công ti Toseco (của con rễ) trước đây nợ không giải thích được khoảng 500 tiû, được ông Chính lấy tiền nghiệp vụ quyết toán hết. Do đó tổng công ti Dectectua hiện đang treo sổ 200 tiû (do ông Hiếu làm trưởng phòng tài chính) mà không ai làm gì được. Chỉ riêng tiền quảng cáo 2 năm 1998 - 1999 là 11 tiû, ông Chính và con rễ phải bó tay, vì khi ông Chính và con rễ chi tiêu đã được ông Hiếu quyết toán. Trưởng ban tài chính cục 12 khi ông Chính làm cục trưởng rồi bàn giao cho con rễ, khi về hưu cho đi du lịch 9 nước trên thế giới vì có công phục vụ gia đình ông Chính, nên khi về được quyết toán bằng tiền nghiệp vụ hết 78 nghìn USD.

2- Sử dụng cán bộ, điều động cán bộ một cách vô nguyên tắc: Công tác cán bộ là công tác của Ðảng ủy và chỉ huy nhưng thực chất thường vụ và đảng ủy chỉ là bù nhìn, vì tất cả đều do ông Chính và con rễ quyết định tại gia đình mình. Thường vụ và đảng ủy chỉ được thông báo khi việc đã rồi . Sự điều động sai nguyên tắc ấy được BQP nhắc nhiều lần nhưng ông Chính không nghe mà còn cho rằng họ hoạt động cho địch. Vì thế lẽ ra ông Chính phải bàn giao ngay khi có quyết định thôi chức nhưng ông ta chưa chịu, nguy hiểm hơn ông ta vẫn giữ riêng cho mình 2 con dấu (dấu tổng cục trưởng và dấu bí thư đảng ủy) để hình sự... Nguyên tắc nào cho phép Tổng cục trưởng điều động cán bộ cấp cục, nguyên tắc nào cho phép bí thư đảng ủy chỉ định bí thư đảng ủy cấp dưới mà anh ta chỉ là một đảng viên thường (trường hợp ông Hà Khắc Thái không phải Ðảng ủy tổng cục được chỉ định là bí thư đảng ủy T500), mà đúng ra chỉ được quyền chỉ định bổ sung vào đảng ủy viên rồi tuỳ tình hình mà đảng ủy bộ phận ấy bầu làm bí thư . Rồi một số cán bộ cục phó chính trị bị điều động vô nguyên tắc (vì cán bộ cấp cục trưởng đã bị tiêu diệt trước rồi, một số cán bộ dám mạnh dạn đấu tranh với ông Chính và không ủng hộ con rễ được như ý) như: ông Phê nguyên trưởng phòng cán bộ, ông Toàn cục phó chính trị cục 16, ông Giao cục trưởng 25, được đề bạt ''giữ chức vụ cao hơn'', ông Phê cục phó chính trị cục 25 được đề bạt làm trưởng ban chính trị trung tâm nghiên cứu, ông Toàn cục phó chính trị cục 16 được vinh thăng làm trưởng phòng chính trị T500, ông Giao cục trưởng 25 nâng trần làm tuỳ viên quân sự nước ngoài, ông Hoài Thanh cục trưởng cục 16 đang được ve vãn nâng lên chuyên viên...

Thực chất những việc tham ô, tham nhũng, gia đình trị, sử dụng cán bộ vô nguyên tắc của Vương triều Vũ Chính - Vương triều vô học này là gì? Trước hết là để hợp hoá số tài sản, tiền bạc không ai có thể quyết toán được nếu trao vào tay ngườI khác làm tổng cục trưởng. Do đó phải chọn ngườI trong gia tộc, nó theo một chu trình (được gọi là quy hoạch cán bộ đến năm 2010) là: Vũ Chính trao cho Chí Vịnh, Vịnh trao cho Hùng tút, Hùng tút trao cho Chí Dũng, phải tìm người đệm ''Vũ'' hoặc ''Chí'' để tiêu hoá. Hiện nay dòng họ này rất mong có biến động để ra về yên thân. Nếu không tiêu hoá được thì tiền đóđể mua chức bán danh. Ðó là sự anh minh của Vương triều Vũ Chính.
Thảo dân chúng tôi mới dám chọn một vài ''bông hoá' trong rừng hoa tài năng của Vương triều Vũ Chínhđể các bạn xem xét, nghiên cứu.
Tên lưu manh Nguyễn Chí Vịnh

Bản chất lưu manh:Từ lưu manh trộm cắp đến lưu manh kinh tế-chính trị làm đường tiến thân. Từ một học viên đang học tại Học viện kỹ thuật quân sự, nhiều lần trộm cắp trong Học viện, rồi một lần bị bắt quả tang phá mái nhà kho chui vào ăn cắp quân trang của Học viện, mặc dù biết là con của ông Nguyễn Chí Thanh nhưng Học viện vẫn phải đuổi học. Sau đó, nhờ uy tín của gia đình, Vịnh xin được vào học trường sĩ quan Thông tin, học không được, rồi xin vào Bộ tư lệnh Thông tin làm việc một vài tháng rồi về Cục 2 công tác.

Sau 4 năm làm trợ lý, loay hoay mở quán cháo lòng không thu hút được khách, cuối năm 1989 nhờ sự giúp đỡ tích cực của người anh rể là Lê Việt Bắc (thư ký ông Đào Đình Luyện) và hội G7 (1) cho ra đời Công ty du lịch, dịch vụ và thương mại (TOSECO) do Vịnh làm Giám đốc. Cương lĩnh đầu tiên của Vịnh với cấp dưới thuộc quyền và thân bằng cố hữu là: "Phải bằng mọi cách kiếm được nhiều tiền, bỏ túi được nhiều cán bộ cấp cao để dễ bề thao túng". Cương lĩnh này đã thực hiện được bằng cách:

1_I. Kiếm tiền thông qua danh nghĩa tập thể:

Lấy danh nghĩa công ty TOSECO gấp rút xin đất, xin nhà với danh nghĩa làm bình phong cho hoạt động nghiệp vụ, làm nhà ở cho cán bộ. Sau khi xin đất, nhà... Vịnh chia ra các lĩnh vực sau đây:

a) Mở Công ty liên doanh như khu biệt thự quận 10, khu cao ốc Hồ Tây, nhà hàng bia ôm trong khu triển lãm Giảng Võ mang tên "Quê Hương", đồng thời cho thành lập Công ty xây dựng và thương mại Hồng Bàng ở phía Bắc và Công ty HB ở miền Nam. Hai Công ty xây dựng và thương mại do con trai và con rể của ông Vũ Chính (bố vợ Vịnh, Tổng cục trưởng TC 2) làm giám đốc. Vốn của 2 Công ty này đều huy động trong nội, ngoại vợ chồng Vịnh và nhóm G7 như ông Ngọc, ông Kháng, ông Trung, ông Nhu, ông Bắc, ông Hoàng Dũng, ông Phùng Hưng ở Văn phòng Bộ Quốc phòng và Văn phòng Bộ Tổng Tham mưu và một số quan chức thân tín khác đứng ra để góp vốn liên doanh hoặc trực tiếp nhận xây dựng các công trình đặc biệt của Bộ quốc phòng không phải đấu thầu thiết kế dự toán, tất cả đều được thông qua phạm vi hẹp thanh toán quyết toán bằng cách dùng mọi sức ép từ những vụ đặc biệt của cơ quan Văn phòng Bộ Quốc phòng và Văn phòng Bộ Tổng Tham mưu để chấp nhận giá mà Hồng Bàng và HB đề nghị. Riêng việc này và gia đình đã thu được:
Các khoản tiền đền bù đối tác liên doanh, tiền lời xây dựng công trình.
Các khoản lời từ liên doanh rút ra làm nghiệp vụ. Một điểm đáng chú ý là sau khi chiếm đoạt tiền hoa hồng và đền bù từ liên doanh biệt thự quận 10, phó Giám đốc TOSECO là Đào Quang Thép bị loại vì thắc mắc trong ăn chia.
b) Bằng nhiều lần thủ đoạn chiếm đoạt các khu nhà của các đơn vị và lấy cớ để kinh doanh nghiệp vụ.

Đầu tiên là lừa ông Hoàng Hữu Thái, Tư lệnh hải quân khu nhà 1A công trường Mê Linh Sài Gòn để liên doanh. Sau khi hải quân đồng ý thì Vịnh và G7 lập luận hải quân không cần kinh doanh và đề nghị Bộ quyết định chuyển cho TC2 (Tổng cục 2) làm nghiệp vụ. Thế là hải quân cay đắng mất đất. Đến giờ này trung tướng Hoàng Hữu Thái, nguyên tư lệnh hải quân vẫn phàn nàn lỗi lầm của mình là đầu hai thứ tóc mà bị Vịnh lừa. Được đất rồi, Vịnh xin ngân sách quốc phòng giao công ty HB xây dựng làm trung tâm thương mại quốc tế rồi cho thuê lấy tiền. Lại một lần nữa gia đình Vịnh thu được khoản tiền khổng lồ từ việc này. Quân khu 7 mất luôn nhà 51 Trương Quốc Dung và một số khu vực khác ở Biên Hoà, Vũng Tàu. Cục đối ngoại mất khu 45 đường Trường Chinh và nhà khách Liễu Giai, Tổng cục chính trị mất nhà khách 14A Lý Nam Đế, nhà nghỉ Đồ Sơn, Quân chủng phòng quân mất bãi pháo hồ Trúc Bạch, quân khu 5, quân khu 3 đều mất những khu vực quan trọng. Hà Nội mất hàng ngàn m2 trong triển lãm Giảng Võ, sàn nhẩy Queen Bee Láng Hạ. Đáng chú ý là điểm ăn chơi đó rất lãi mà nhà nước không thu được bao nhiêu, biến thành những điểm tiêu cực của xã hội. Các vũ nữ đẹp đều được hiến cho Bắc (anh rể Vịnh) và G7. Sau đó còn có cô được lấy về làm giám đốc nhà khách 14A Lý Nam Đế hiện nay. Không một ngày cống hiến cho cách mạng mà cô ta nghiễm nhiên có xe con mang biển số 80B (biển của Trung ương) phục vụ riêng, có quân hàm thiếu tá, nhà nghỉ của Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị tại Đồ Sơn, nhà khách TOSECO ở Vũng Tàu đều trở thành nhà chứa cho người thân của Vịnh đến lúc không có khách thì kinh doanh vì đó là TC2 thì có sai phạm gì đều lấy lý do nghiệp vụ để giải quyết. Các khu nhà đẹp đó, Vịnh và G7 đều xin được ngân sách quốc phòng cấp để cải tạo, xây mới và đều giao Hồng Bàng và HB xây dựng. như vậy, Vịnh và gia đình lại một lần nữa thu tiền qua xây dựng công trình và kinh doanh nghiệp vụ với các hình thức mở các tụ điểm chơi bời cho các quan chức nhà nước, tiền lãi cổ phần. Các phương tiện, nội thất trang bị rất hiện đại

c) Đối với đất xin nhà ở cán bộ, Vịnh cấp cho cán bộ khá chu toàn nhưng những khu đẹp như đường Trường Sơn, đường Sư Vạn Hạnh đều chia cho những G7 đã có công như ông Nhu (thư ký ông Khuê) ông Bắc (thư ký ông Luyện, anh rể), ông Kháng ở Văn phòng Bộ Quốc phòng... Ở đây Vịnh không thu tiền nhưng dùng chính sách thưởng cho G7 để làm mối ràng buộc để ép những việc khác đặc biệt là Kháng. Nhu và Hồ Sỹ Hậu đã trình Bộ trưởng ký cấp cho Vịnh tất cả trên 40 xe con xịn các loại để hoạt động đi lại và kinh doanh. Thực tế đội xe con chở khách của Vịnh đóng ở Thụy Khuê hoạt động rất mạnh.

Như vậy, xem từ các mục a, b, c nêu trên chỉ có ban kiểm tra đặc biệt của TW mới có thể kiểm kê được trong 10 năm qua Vịnh đã bày trò chiếm nhà đất được bao nhiêu chỗ. Hiệu quả cho nhà nước và nghiệp vụ, cho Đảng được những gì ?

1_II- Kiếm tiền qua những hợp đồng thương mại.

Với lý do TOSECO có chức năng thương mại nên từ khi có ngân sách đặc biệt, Vịnh đã ký nhiều hợp đồng mua máy bay, tàu thuỷ, phụ tùng cho phòng không, không quân, thiết giáp, đóng tàu trên 300 triệu đô-la với cơ chế G7 thao túng. Thủ trưởng Bộ buộc cho phép TOSECO được hưởng hai chữ "bí mật" nên không cần đấu thầu. Mỗi chuyến hàng chở từ Nga về đến sân bay, Vịnh đều cho xe bọc kín ra lấy hàng và đi cửa sau, không qua bất kỳ một cửa kiểm soát nào. Với số tiền này, chúng khôn khéo bỏ túi tất cả các cấp lãnh đạo và bịt kín tất cả những chuyện chúng làm hại quốc phòng và gây thiệt hại nhiều trăm triệu đô-la của nhà nước như thế nào. Không có hợp đồng thẩm định các hợp đồng cho nên mua thì rất đắt (người môi giới ở SNG đều là chân tay của Vịnh), chất lượng kém. Ví dụ như mua SU27 thì báo công với Bộ là rẻ hơn Trung Quốc mua, nhưng thực tế lừa Bộ ở chỗ phía Trung Quốc mua là mua SU27 đánh biển, giá TOSECO mua là SU27 đánh không. Tai hại hơn khi diễn tập ở biển đưa loại SU27 này ra biểu diễn thì mới rơi ngay xuống biển gây mất của, chết người. Một thí dụ khác là mua tàu, thiết bị vật tư đóng tàu, thiết bị sửa chữa máy tàu đều mua đắt, thiết bị cũ mà không phải chịu trách nhiệm trước cảnh sau gần 10 năm mà tàu chiến vẫn chưa ra tàu, nhà máy vẫn chưa ra nhà máy. Trung ương cứ đến nhà máy X50, X51 Ba Son của Hải quân Tổng cục kỹ thuật, Tổng cục công nghiệp quốc phòng và kinh tế, các quân binh chủng để tìm hiểu về vấn đề này thì rõ. Đặc biệt dây chuyền X50, tư lệnh hải quân Mai Xuân Vinh kiên quyết không cho nghiệm thu, nhưng sau nhiều lần Vịnh dùng Bộ ép nên vẫn phải nghiệm thu.

Như vậy, Vịnh và cộng sự đã kiếm được hàng chục triệu đô là tiền môi giới, hoa hồng lại quả (qua cộng sự), tiền chi phí vênh khi thực hiện hợp đồng theo cơ chế nghiệp vụ mà không ai sờ đến.

Sau khi cơ chế của Bộ chặt hơn thì Vịnh chuyển ngay ra kiếm tiền "Chinh tắc" hơn là việc thành lập hệ thống tình báo công nghệ: Cục tình báo công nghệ, Trung tâm B5, Công ty SECOTEX (với danh nghĩa của Tổng cục công nghiệp quốc phòng và kinh tế), Công ty HITACO (với danh nghĩa là Tổng cục kỹ thuật) và xin được hàng ngàn m2 đất và đang xúc tiến xây dựng dự án xin nhà nước đầu tư khu công nghệ cao thông qua Vụ Khoa giáo Văn phòng chính phủ (theo sự chỉ đạo trực tiếp của Đoàn Mạnh Giao). Các Công ty trung tâm nói trên đều được nhà nước bao cấp toàn bộ, nhưng hầu như giành tư cách ký kết các hợp đồng nhập ngoại để đầu tư cho khối bảo đảm kỹ thuật và công nghiệp quốc phòng.

Ngoài các Công ty nói trên, Vịnh đã chỉ đạo bố vợ là Vũ Chính cho phép mỗi Cục trong TC 2 thành lập ít nhất một Công ty bình phong làm công việc dân sự để lấy người, phương tiện của quân đội kinh doanh thương mại, tập hợp một số thành phần lao động xuất khẩu ở nước ngoài để làm đại diện cho Vịnh, hoặc thành lập Công ty bình phong ở nước ngoài lấy ngân sách nhà nước trang bị cho quốc phòng nhằm phục vụ tìm kiếm đối tác phục vụ cho những hợp đồng thương mại nói trên. Thử hỏi trong 6 năm qua ngân sách Nhà nước đã chi cho chương trình tình báo công nghệ hàng trăm tỷ đồng nhưng chưa thu lại kết quả gì về công nghệ cho quân đội để áp dụng vào sửa chữa và sản xuất trang bị. Người đứng đầu ngành tình báo công nghệ hiện nay là Hùng, một cộng sự tin cẩn nhất của Vịnh từ lúc còn cùng ở Công ty TOSECO. Ở TC 2 hiện nay có hai người giàu nhất, triệu phú đô-la, là Vịnh và Hùng, nhờ kiếm được nhiều tiền trên những hợp đồng mua sắm của Bộ Quốc phòng.

1_III- Bỏ túi cán bộ của Đảng và quân đội như thế nào ?

Ngay khi thành lập TOSECO, người được Vịnh cử làm Phó Giám đốc thường trực phía Bắc là Tấn (em của Đặng Kháng - Trưởng phòng tổng hợp của Văn phòng Bộ Quốc phòng, Kháng là một trong những nhân vật trụ cột của G7) thuê có văn phát triển cho Công ty là Bắc (anh vợ Vịnh -thư ký ông Đào Đình Luyện) với mức lương 500 USD/tháng dưới danh nghĩa thuê 1 phòng nhà ở của Bắc làm đại diện, cử cháu ông Đào Đình Luyện là Đào Quang Dũng làm Tổng đại diện ở Moscow cặp bồ với Thị Phương (vợ của một cán bộ cao cấp của TC2) tại Sanh Pê-tec-bua để làm hậu thuẫn dung nạp thêm các cộng sự đang là lao động xuất khẩu để kiếm hàng. Sau đó lần lượt đưa con ông cháu cha về Công ty như con của Văn Phác, Hà Thị Quế, Đỗ Đức, Cao Tiến Phiêm...

Sau khi có tiền, có phương tiện và tư cách đầy đủ về nghiệp vụ, Vịnh đã bỏ túi bằng gái, bằng tiền, bằng nhậu, bằng những đêm nhất dạ đế vương mà điển hình là các tướng lĩnh ở những vị trí quan trọng có thể giúp Vịnh được nhiều việc như Lê Khả Phiêu, Lê Văn Hân (Cục trưởng Cục cán bộ), Đoàn Mạnh Giao (Văn phòng Chính phủ), Dương Đàm (Cục trưởng Cục quân lực), Hoàng Dũng (Chánh văn phòng Bộ Tổng tham mưu), Nguyễn Hữu Cảng (Cục trưởng Cục Tài chính)... cộng với sự chiều chuộng vô biên cho hội G7 như Sáu Ngọc, Hồ Sỹ Hậu, Đặng Kháng, Quang Trung, Việt Bắc, Nhu, Phùng Hưng và một số chuyên viên quan trọng khác. Chúng ta thử đánh dấu hỏi tại sao chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Lê Khả Phiêu đã dễ dàng nhường cho các khu nhà khách quan trọng cho Vịnh kinh doanh ? Tại sao lại đưa một cô ca ve về làm giám đốc nhà khách 14A Lý Nam Đế, cho đeo lon thiếu tá và lại thân thiết Lê Khả Phiêu và Lê Văn Hân hơn mọi người bình thường khác.

Bằng mê hồn trận, tuyển con cháu họ hàng của những nhân vật quan trọng, dùng tiền, dùng gái, Vịnh đã bỏ túi được nhiều cán bộ cao cấp, đã thành công mỹ mãn về kinh tế và công danh chính trị. Vừa là triệu phú đô-la, vừa được môĩ năm thăng một cấp quân hàm. Mỗi năm lên mỗi chức vụ. Xây dựng được một hệ thống đàn em với các tụ điểm nhảy đầm, bia ôm, gái điếm "bình phong", được các Công ty trong và ngoài nước cống nạp đều đặn. Tính ra Vịnh đã có 7 cơ ngơi riêng ở khắp đất nước đứng tên khác nhau với đơn giá xây dựng bình quân 4 triệu đồng/m2. Vợ của Vịnh ngày ngày tự lái xe con xịn đi làm, lúc nào cũng ăn mặc đeo kính đen trông như một minh tinh màn bạc cỡ thế giới mà bên Hồng Kông ai cũng biết và phải gờm. Khi Vịnh lên Tổng Cục phó đã mua ngay trên 2000 m2 đất Thụy Phương (phía nam cầu Thăng Long) để làm dinh thự. Trong khi đó có biết bao nhiêu chiến sĩ anh hùng hoạt động cống hiến suốt đời cho ngành tình báo dù có còn sống có công cũng chưa bao giờ được đặc cách đề bạt vượt cấp, vượt chức và có một cuộc sống để vươn như Vịnh.

Sau khi có chức có quyền Vịnh muốn thoả mãn giấc mộng làm nguyên thủ quốc gia, ngoài việc tổ chức ghi âm quay phim khi chiêu đãi các Xếp, Vịnh nghĩ ra trò nghe trộm điện thoại của tất cả các quan chức quan trọng thuộc các tỉnh thành, quận đội từ trung ương để thực hiện thủ đoạn cao nhất của lưu mạnh chính trị. Khi Phạm Thanh Ngân và Lê Khả Phiêu đã bị Vịnh đút túi dễ dàng nghe theo và quyết định việc này, mọi công tác tổ chức thực hiện đều do Vịnh trực tiếp tiến hành. Nếu không sớm chấm dứt được việc này thì tương lai của các nguyên thủ quốc gia cũng bị bỏ túi, kết cục của Việt Nam là Đảng, chính quyền đều bị Vịnh thao túng lũng đoạn thông qua hệ thống tình báo quân đội do Vịnh đứng đầu.

1_IV- Tại sao trong 10 năm Vịnh làm được nhiều chuyện lớn như vậy ?

1- Nhờ bản chất lưu manh và nhiều thủ đoạn

2- Nhờ có G7 và khi G7 bị Bộ Quốc phòng phân hoá thì Vịnh đã tụ tập dàn xếp động viên G7 (kể cả anh rể Vịnh là Bắc bị rời khỏi Bộ Quốc phòng) là hãy biết chấp nhận và chơi bời. Nếu Vịnh can thiệp giúp đỡ thì cả thuyền sẽ bị chìm và chết tất cả. Vịnh hứa sẽ đảm đương việc khôi phục lại G7 mạnh hơn, ví dụ: thay cho tướng Hoàng Dũng thì phải biết xây dựng và sử dụng tướng Cao Tiến Phiêm thay Đặng Kháng thì xây dựng Võ Mai Nhẫn... Kết quả là Phiêm đã vì triển vọng của một đứa con mà ra sức giúp Vịnh được nhiều việc hơn trước mà đặc biệt là thành công trong lĩnh vực ma-phia về chính trị. Khi Vịnh lên Tổng cục trưởng TC 2 thì đã bàn với Cao Tiến Phiêm đưa Trung, Kháng, trở về những vị trí quan trọng ở cơ quan Bộ Quốc phòng để vừa thể hiện ân nghĩa của mình với các đàn anh, vừa có những đệ tử trung thành trong chương trình lưu manh chính trị của Vịnh.

3- Nhờ có bố vợ là Tổng cục trưởng TC2 ở TC2. Hiện nay người ta đều có bình luận chung rằng: Không có Vũ Chính thì không có Chí Vịnh (Vịnh không có thể lên nhanh được như thế mà không có Chí Vịnh thì cũng không có Vũ Chính (vì Vũ Chính lên được Tổng cục trưởng một phần quan trọng nhờ vào sự dàn dựng vận động bằng tiền, bằng gái và lừa lọc của Chí Vịnh và G7)

4- Tất cả sự tham gia của Vịnh vào các chương trình mua sắm trang bị của Bộ Quốc phòng đều được coi là công của Vịnh nên cơ quan TC 2 cũng nghĩ Vịnh là người có công (mặc dù toàn bộ các công trình này đều không đạt chất lượng và giá lại cao gấp nhiều lần nếu mua chính thức). Đây là một trò lừa đảo mang tính lưu manh chính trị, đồng thời củng cố vững chắc thêm chính sách gia đình của bố con Vũ Chính - Chí Vịnh tại TC 2.

5- Với vai trò vị trí của TC 2, Vịnh có điều kiện tiếp cận và đút túi các cán bộ cao cấp của quân đội và nhà nước.

6- Trong số con ông cháu cha và bạn bè thân hữu của Vịnh được tuyển vào TC 2 là không một ngày làm lính, không được học tập bản chất truyền thống của quân đội, được tuyển vào 93, 94, 95 và 96 này đều đã được đeo quân hàm thiếu tá, trung tá là phổ biến cá biệt có trường hợp là thượng tá. Làm như vậy, Vịnh vừa có công với gia đình họ đồng thời thiết chặt sự chân thành của những người đó với mình. Nếu không thao túng được Cục cán bộ và Tổng cục chính trị thì vẫn không thể giải quyết được.

Từ các vấn đề nêu trên, đề nghị Bộ Chính trị, Ban chấp hành TW:

1. Loại khỏi trên trùm lưu manh, tham nhũng, tội phạm Nguyễn Chí Vịnh ra khỏi Đảng Cộng sản và quân đội Việt Nam.

2. Không cho phép tình báo quân đội (TC2) thành lập doanh nghiệp, không được kinh doanh nghiệp thương mại mà chỉ được cắm người vào các tổ chức hoặc các Công ty cần thiết.

3. Đất nước Việt Nam có dân tộc anh hùng, có Đảng vững mạnh, có đủ các ban an ninh, bảo vệ trong quốc phòng cũng như Bộ Nội vụ không cần có TC 2 mà trả về vị trí Cục 2 thuộc Bộ Tổng Tham mưu/Bộ Quốc phòng như giai đoạn trước đây chúng ta đã từng thắng Mỹ.

4. Sau đại hội, chấn chỉnh tổ chức quân đội cho vững mạnh, trước hết là chấn chỉnh TC 2 chọn người hiền tài cho đất nước.

(1) G7 là nhóm các thư ký có quyền thế của Bộ, Thứ trưởng và Trưởng nhóm các đơn vị thuộc Bộ Quốc phòng.

°Bình luận: Đúng là "Hổ phụ sinh cẩu tử". Nếu người đồng đội biết từng chân tơ kẽ tóc không nói ra thì ai biết Chí Vịnh thế nào ? Việc phong hàm Trung tướng cho Vịnh là thách thức dư luận, phải chăng hợp với mưu đồ của Lê Đức Anh để Đại hội X sắp đến tiến cử tay sai của mình vào BCHTWƯ, Bộ Chính trị để tiến tới chiếm quyền lực cấp cao. Ôi thôi! Truyền thống QĐND Việt Nam anh hùng, danh hiệu "anh bộ đội Cụ Hồ" mà dân tộc tôn vinh đâu còn nữa ! Đảng CSVN quang vinh đâu còn nữa !!!


“CON HÙM XÁM ĐƯỜNG SỐ 4”
ĐÃ PHẢI LÊN TIẾNG CẢNH CÁO BỘ  CHÍNH TRỊ:

Đừng để Đỗ Mười “Dùng uy lực cá nhân bắt các cơ quan
của Đảng và Nhà nước làm theo ý riêng của ông”!

            “BCT không nên can thiệp vào… không nên dùng các cơ quan nhà nước, hay tổ chức đảng can thiệp vào việc cá nhân”.
            Trên đây là lời khuyến cáo của ông Đặng Văn Việt  liên quan tới việc Bộ chính trị (BCT) vì áp lực của Đỗ Mười cho nên mới đây đã tìm cách khai trừ Đoàn Duy Thành ra khỏi đảng. Ông Việt là một Cách mạng lão thành, nay đã 86 tuổi, gần 60 năm tuổi Đảng. Trong chiến tranh Việt-Pháp ông là sĩ quan chỉ huy Trung đoàn Chủ lực Cao bắc lạng, từng được báo chí Pháp đặt tên là “Con hùm xám Đường số 4” , ngừơi gần gủi với Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ông đã viết chuyện “Tâm sự ngừơi lính già”, sách sẽ xuất bản bằng tiếng Pháp trong thời gian tới.
            Mới chỉ cách đây vài ngày vì áp lực của Đỗ Mừơi, nên BCT đã phải cử một phái đoàn của Uỷ ban Kiểm tra trung ương ĐCSVN tới họp với Chi bộ đảng của ông Đòan Duy Thành, nguyên Uỷ viên Trung ương đảng và Phó Thủ tướng, để tìm cách khai trừ ông Thành ra khỏi đảng. Nguyên nhân là vì gần đây Đoàn Duy Thành đã viết một Hồi kí trong đó có phần chỉ trích những thói gian xảo và lộng quyền của Đỗ Mười trong các thập niên trước đây.
            Trong cuộc họp này, ngoài các đảng viên trong Chi bộ  và đại diện Uỷ ban Kiểm tra Trung ương, ông Thành cũng tham dự. Ông Việt cho biết, sau cuộc bỏ phiếu kín, kết quả đã được công bố công khai ngay tại cuộc họp là: “11/13 trắng án (vô tội), 1/13 cảnh cáo, 1/13 phê bình”. Kết quả này cho thấy tuyệt đại đa số đảng viên trong Chi bộ của Đoàn Duy Thành đã chống lại quan điểm sai trái tìm cách ức hiếp của  Uỷ ban Kiểm tra Trung ương và BCT.  Điều này cho thấy là, nay cả những ngừơi đảng viên thường cũng can đảm dám chống lại những quyết định sai trái của cấp cao nhất trong Đảng.
            Trong việc này Đặng Văn Việt đã nhận thấy BCT đã vi phạm những sai lầm nguy hiểm. Cho nên trong tư cách là một Cách mạng lão thành với gần 60 năm tuổi Đảng, ông Việt, “Con hùm xám đường số 4” trước đây, thấy đã tới lúc không thể im lặng được nữa, nên đã phải lên tiếng. Ngày 15.11 ông Việt đã viết thư trực tiếp gởi cho BCT về việc này. Ông đã phản bác tất cả những lời buộc tội của BCT đối với Đoàn Duy Thành. (Toàn văn xem trong phần sau).
            Nhận định chính của Ông là: Hiện nay cả  Đỗ Mừơi và Đoàn Duy Thành không còn giữ một chức vụ gì ở trong đảng lẫn chính phủ, những việc ông Thành viết về Đỗ Mười chỉ mang tính cách cá nhân của hai “phó thường dân” mà thôi, không dính dáng gì tới Đảng và Nhà nước cả. Vì thế không ai có quyền nhân danh Đảng hay Nhà nước tới hạch sách Đoàn Duy Thành được, nếu Đỗ Mừơi muốn thì cùng lắm đưa ra toà án xử!
            Trong thư gởi cho BCT cũng như trình bày trên đài Á châu Tự do ông Việt đã thấy rất rõ, tuy là một việc riêng, nhưng ai đang đứng đằng sau bắt BCT phải can thiệp vào việc này. Đặng Văn Việt đã vạch rõ: “Đỗ Mừơi là động lực thúc đẩy việc này !”
            Vì thế, trong cuộc phỏng vấn nói trên ông Việt đã báo động với các đảng viên và dư luận:
            “Ông Đỗ Mừơi dùng uy lực của ông để ép cơ quan của Nhà nước, của Đảng để trừng phạt ông Thành”.
            Tuy Đỗ Mừơi không còn giữ một chức vụ gì trong Đảng và Nhà nước, nhưng trước sau vẫn có “quyền uy” rất lớn. Cho nên Đặng Văn Việt đã  gọi thái độ hành xử của Đỗ Mừơi ra lệnh cho BCT phải giải quyết những việc thù riêng và nhỏ nhặt của mình như  tác phong của “Thái thượng hoàng” của thời phong kiến trước đây lại đang sống dậy trong chế độ gọi là XHCN của ĐCSVN hiện nay!
            Đây là một sự lạm quyền và lộng quyền ngày càng công khai trắng trợn của Đỗ Mười. Không phải chỉ riêng Đỗ Mười mà cả Lê Đức Anh cũng đang tìm cách khuynh đảo BCT, tìm cách ngăn cản BCT không được đụng tới những hồ sơ của nhiều tứơng lãnh tên tuổi và Cách mạng lão thành đòi phải đưa Lê Đức Anh gian dối và lộng quyền trong các vụ Tổng cục 2 và T4 ra xét xử công khai. Việc này đã được Đại tướng Võ Nguyên Giáp, cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt, nhiều tứơng lãnh và nhiều Cách mạng lão thành lên tiếng cảnh cáo BCT và báo động dư luận trong và ngoài đảng trong thời gian vừa qua.
            Trong thư gởi cho BCT, Đặng Văn Việt đã lưu ý là vài năm trước cũng chính  BCT đã chịu áp lực của Đỗ Mươì, chỉ vì những thù hận riêng của Đỗ Mườì cho nên BCT  đã không dám dùng bốn chữ “Vô cùng thương tiếc” trong đám tang của Trung tướng Trần Độ:
            “ Việc đồng chí Đoàn Duy Thành, nếu không phải là thi hành chỉ thị của đồng chí Đỗ Mười thì không ai bỏ công, bỏ việc để làm một việc vớ vẩn này. Ngược dòng lịch sử, nhớ đến anh Trần Độ, chỉ vì xin ý kiến…mà đồng chí Đỗ Mười đã hét lên: “Cho nó chìm xuống bùn đen”; cả bốn chữ Vô cùng Thương tiếc cũng cấm chỉ trên các vòng hoa… thì đâu còn là đậm đà với “bản sắc văn hoá dân tộc”? với “nghĩa tử nghĩa tận”… với một đảng viên công thần suốt đời vì sự nghiệp giải phóng dân tộc!!??”  
            Ông Việt cho biết, đến nay hàng ngàn đảng viên vẫn còn vô cùng bất bình với thái độ vô cùng thiếu văn hoá của BCT.
            Trong phần cuối thư ngày 15.11 gởi cho BCT ông Đặng Văn Việt đã lưu ý BCT đừng tiếp tục để cho một số ngừơi vì quyền lợi riêng khuynh loát:
            “a) Trong khi đất nước đang có nhiều việc lớn, Bộ chính trị nên tập trung trí tuệ, tài năng lo xây dựng đất nước. Lắng nghe ý kiến của đảng viên, lão thành cách mạng, những người có tâm huyết, mạnh dạn đổi mới, tiếp thu cái mới. Nếu chỉ nghe những lời xu nịnh, bợ đỡ, bảo thủ, Đảng sẽ mất vai trò tiên phong, trở thành sức cản của xã hội.
            b) Việc chưa thực thi ý đồ trả thù vặt của đồng chí Đỗ Mươì là một may mắn cho đảng, nếu không sẽ xẩy ra một vụ Trần Độ thứ 2, một đốm lửa châm vào thùng thuốc súng sẽ gây một tai hại không lừơng hết (rút kinh nghiệm vụ bạo loạn đang xẩy ra ở Pháp).”
            Trong  phần kết luận cuộc phỏng vấn của đài Á châu Tự do, “Con hùm xám đường số 4” Đặng Văn Việt bằng giọng nói cương quyết đã lại cảnh cáo BCT, đồng thời cũng báo động với dư luận trong đảng và ngoài xã hội vì lương tâm và lòng tự trọng đã đến lúc không thể im lặng được nữa:
            “Không muốn dính vào chính trị vì chính trị phức tạp. Nhưng là một đảng viên, một Cách mạng lão hành trước một việc làm không đúng thì phải có thái độ chính trị. Bảo vệ công lí, bảo vệ lẽ phải… không để hiểu sai là dân tộc ta không có văn hoá tốt đẹp. Nói trước để ngăn ngừa. Nếu không thì sẽ xẩy ra vụ Trần Độ thứ 2 !”
                                                                                                   Đặng Văn Việt


Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 2005
Kính gửi:  Bộ Chính trị,  Ban chấp hành Đảng cộng sản Việt Nam
(Xung quanh việc đưa Đoàn Duy Thành ra pháp luật có thi hành kỷ luật không)

Gần đây đồng chí Đoàn Duy Thành có viết một cuốn Hồi ký cá nhân kể về cuộc đời riêng và đời công tác của mình. Sách chưa đưa ra cho Nhà xuất bản, chỉ mới đánh máy photo vài trăm bản biếu bạn bè. Đồng chí có tặng tôi một cuốn! Tôi có xem qua thấy viết dài dòng, nhiều kể lể không cần thiết cho mọi người, tính văn học ít, đặc biệt có đoạn nói nhiều về quan hệ với đồng chí Đỗ Mười, bị trù úm, vùi dập. Tuy không phải là một cuốn hồi ký hay những đặc biệt có đoạn quan hệ với đồng chí Đỗ Mười, làm nhiều người tò mò tìm xem. Có lẽ vì vậy, có bạn chỉ trích và phô tô 25 trang cuối, còn để lại không xem 3-400 trang khác.

Gần đây tôi được biết có một cuộc họp để lên án ông Đoàn Duy Thành, để vận động thi hành kỷ luật dưới 4 hình thức (cảnh cáo, khai trừ, phê bình, trắng án) về 7 tội danh (vi phạm luật xuất bản, làm lộ bí mật quốc gia, gây mất đoàn kết, đả kích cá nhân lãnh tụ, bịa đặt một số vấn đề không có thực tế, để tầng công...).

Hội nghị thảo luận, bỏ phiếu kín và cuối cùng tuyên bố kết quả: "11/13 trắng án (vô tội) 1/13 cảnh cáo, 1/13 phê bình"...

Hội nghị ra về, đa số đảng viên phấn khởi vì đã cứu Đảng khỏi một sai lầm, bậy bạ, làm mất uy tín và thanh danh của Đảng, còn phái đoàn cấp trên thì tiu nghỉu xách cặp lên xe buồn vì không thực hiện được chỉ thị cấp trên, buồn vì nỗi bất lực không hoàn thành nhiệm vụ sau bao công sức, thời gian điều tra, nghiên cứu. Có đồng chí cay cú quay đầu nói với: "Nếu đảng viên không đồng ý, thì Bộ Chính trị có quyền tối hậu - bất chấp!"

Đã là một đảng viên, lâu năm trong Đảng, tôi có ý nghĩ: Mình đã về hưu, tuổi cao, không muốn dây vào những vấn đề chính trị phức tạp. Nhưng, đã còn là Đảng viên, thì phải có trách nhiệm, phải tỏ thái độ chính trị của mình trước Đảng, trước những diễn biến của thời cuộc, tôi thấy cần góp một số ý kiến với Bộ Chính trị...

1. Một cuốn hồi ký cá nhân, mới viết xong, chỉ mới photo vài ba trăm bản, lưu hành nội bộ cho bạn bè, chưa có liên hệ với các nhà xuất bản, chưa có liên quan gì đến luật xuất bản, mà đã gọi là vi phạm luật xuất bản. Rồi đây hàng vạn người viết hồi ký, viết gia phả cho con cháu, sẽ phải cẩn thận kẻo phạm vào luật xuất bản!!!big grin

2. Làm lộ bí mật quốc gia: Ở các nước văn minh, sau 30-40 năm, người ta cho phép công bố những bí mật quốc gia. Cuốn sách của ông Đoàn Duy Thành không đả động gì đến đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, chỉ có một đoạn nói về quan hệ gay gắt giữa ông Đoàn Duy Thành và ông Đỗ Mười... có gì gọi là bí mật quốc gia!?

3. Vấn đề làm mất đoàn kết nội bộ: Tôi thấy cuốn sách của đồng chí Đoàn Duy Thành chỉ có gây mất đoàn kết với đồng chí Đỗ Mười, vì ông bị ông Đỗ Mười trù úm; còn đối với cả đất nước Việt Nam, trong nước cũng như ngoài nước, đồng chí Thành không gây mất đoàn kết với bất cứ ai.

4. Vấn đề đả kích lãnh tụ cấp trên: Tôi thiết nghĩ: đồng chí Đoàn Duy Thành là một cựu Phó Thủ tướng, đã là một Trung ương ủy viên, nay về hữu là một phó thường dân. Còn đồng chí Đỗ Mười, có lần là Thủ tướng, là Tổng bí thư Đảng, là Trung ương uỷ viên, nay cũng đã nghỉ hưu, cũng là một phó thường dân như ai. Chưa bao giờ đất nước Việt Nam tôn vinh đồng chí Đỗ Mười lên là anh hùng, là lãnh tụ.

Hai phó thường dân, đã nghỉ hưu, nói chuyện cũ với nhau, nếu có điều gì đúng sai, làm không vui lòng nhau, thì nên gặp nhau, trực diện đối đáp, cãi cọ nhau, nếu cần mời cấp trên chứng kiến, chỉ 1-2 tiếng là xong ngay. Nếu là thời các "Ngự lâm quân" có thể tổ chức 2 hiệp sĩ đấu kiếm, hay bắn súng... chỉ cần 1 phút là xong, không cần gì mà phải huy động đến các ban, ngành của Đảng, cả tổ chức Nhà nước, cả Bộ Chính trị để giải quyết một việc đấu đá của 2 phó thường dân!

Đồng chí Đoàn Duy Thành có nói: "Tôi mới nói chỉ 20% việc của đồng chí Đỗ Mười". Nếu có một cuộc họp đối chứng để đồng chí Đoàn Duy Thành nói nốt 80% còn lại cho đồng chí Đỗ Mười hiểu thêm về mình và rút kinh nghiệm, thì...big grin

5. Về chế độ Thái thượng hoàng:

Dưới thời Lý - Trần của lịch sử Việt Nam, có chế độ Thái Thượng hoàng: vua cha nhường ngôi cho vua con để an nhàn nghỉ tuổi già, nhưng vẫn có mắt theo dõi, đật dây dìu dắt vua con.

Việt Nam có câu "Quan nhất thời, dân vạn đại", thế mà ở đời này, một số vị đã về hưu, nhưng vẫn luyến tiếc một thời làm quan, nên muốn "Quan vạn đại, dân nhất thời".

Chế độ đồng cố vấn (4) đã lỗi thời, bị xoá bỏ (4), nay được thay thế bằng chế độ "Thái Thượng Hoàng" bất thành văn. Người dân đen không hiểu vì sao, bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, có hội họp lớn đều có đầy đủ các chức sắc đã nghỉ hưu: Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Lê Khả Phiêu, Võ Văn Kiệt... (???) với những lời xầm xì không hay...

Tôi nghĩ: "Tre già - măng mọc", Mỗi thế hệ đều có sứ mệnh và trách nhiệm riêng với lịch sử - để cho nó làm - nó chịu trách nhiệm. Vì sao cứ phải kè kè cưỡi lên đầu bọn trẻ!? Bắt lớp trẻ luôn phải cúi đầu xin ý kiến các bố già?!

Tôi nghĩ, những đồng chí lão thành đã về hưu thì nên giữ đúng vị trí của mình. Lúc còn trẻ, còn sung sức, gánh vác việc lớn, có khi còn phạm nhiều sai lầm nghiêm trọng, huống hồ này tuổi đã cao đã yếu, trí óc hạn chế, văn hoá lại thấp, lượng thông tin không đủ, lấy đâu ra trí tuệ để tiếp thu cái mới của thời đại đang phát triển, mà đất nước thì đang tụt hậu quá xa với những quốc nhục quốc nạn..??!! Trong tình hình thời đại như ngày nay với trí tuệ trì trệ của tuổi già có khi chỉ phát huy tác dụng "cố vấn" bậy làm cản bước tiến của dân tộc mà lớp trẻ đang muốn xoá những bài học lịch sử chưa xa thời đại chúng ta là mấy.

Việc đồng chí Đoàn Duy Thành, nếu không phải là thi hành chỉ thị của đồng chí Đỗ Mười thì không ai bỏ công, bỏ việc để làm một việc vớ vấn này. Ngược dòng lịch sử, nhớ đến anh Trần Độ, chỉ vì xin ý kiến... mà đồng chí Đỗ Mười đã thét lên: "Cho nó chìm xuống bùn đen"; cả 4 chữ Vô Cùng thương Tiếc cũng cấm chỉ trên các vòng hoa...thì đâu còn là đậm đà với "bản sắc văn hoá dân tộc"? Với... "nghĩa tử là nghĩa tận"... với một đảng viên công thần suốt đời vì sự nghiệp giải phóng dân tộc!!??

Tôi nghĩ: Các lớp trẻ phải có tính độc lập, biết dựa vào ai, tin cậy vào ai, có vậy mới đưa đất nước tiến lên; chỉ biết dựa vào mấy cây gỗ mục nát, tàn lụi, thì cũng chỉ đưa đất nước đi vào con đường lụn bại.

Chế độ Thái Thượng Hoàng phong kiến đã lạc hậu, nay còn phong kiến hơn cả chế độ phong kiến... thì rất là không phù hợp quan điểm phát triển xã hội của học thuyết Mác. Một học thuyết mà một số người cộng sản còn tôn vinh là "đỉnh cao của trí tuệ loài người", mà lại có "chế độ Thái Thượng Hoàng" thì thật là mỉa mai, nếu chưa nói là phản, là chống chủ nghĩa Mác Lênin.

Kết:

a) Trong khi đất nước đang có nhiều việc lớn, Bộ Chính trị nên tập trung trí tuệ, tài năng lo xây dựng đất nước. Lắng nghe ý kiến của đảng viên, lão thành cách mạng, những người có tâm huyết, mạnh dạn đổi mới, tiếp thu cái mới. Nếu chỉ nghe những lời xu nịnh, bợ đỡ, bảo thủ, Đảng sẽ mất vai trò tiên phong, trở thành sức cản của xã hội.

b) Việc chưa thực thi ý đồ trả thù vặt của đồng chí Đỗ Mười là một may mắn cho đảng, nếu không sẽ xẩy ra một vụ Trần Độ thứ 2, một đốm lửa châm vào thùng thuốc súng sẽ gây một tai hại không lường hết (rút kinh nghiệm vụ bạo loạn đang xẩy ra ở Pháp).

c) Một cuốn hồi ký cá nhân, chưa xuất bản... đã bị tịch thu, bị cấm, bị lên án, hăm doạ kỷ luật, thì còn gì là chế độ dân chủ ?? Quyền con người tối thiểu bị vi phạm nghiêm trọng, - cả nước sẽ không thể chấp nhận một lề lối lãnh đạo quá lạc hậu.

                      Bốn lá thư tố cáo Tướng Nguyễn Khánh Toàn

Lâu nay người ta đồn đại quá nhiều về tướng Công an Nguyễn Khánh Toàn. Trong bài "sự thật về vụ Vicarent" chúng tôi đề cập trước đến quan hệ của Nguyễn Khánh Toàn với Tổng cục 2 và với Phương, Đan... Tuy nhiên chúng tôi vẫn phân vân chưa rõ con người này ra sao, chỉ biết không phải tài cán gì mà chủ yếu là chạy chọt, lo lót, dựa thế bố vợ lên chức. Rồi ảo tưởng cấu kết với Tổng cục 2 Quân đội để đánh Lê Minh Hương, Bùi Quốc Huy nay ép Lê Hồng Anh để giành ghế Bộ trưởng.
Nay trong tay chúng tôi có 4 bức thư của những người có trách nhiệm nói về tướng Công an Nguyễn Khánh Toàn.
Một lá thư nói lên sự thật việc tướng Toàn bao che cho tập đoàn Mafia Phương-Đan-Hoàng nổ.
Lá thư thứ 2 thì nêu việc tướng Toàn tự ý đưa con mình một cậu ấm lêu lổng, ăn chơi trác táng trở thành sĩ quan tình báo.
Lá thư thứ 3 của 1 đại tá Công an tố cáo tướng Toàn khá toàn diện.
Lá thư thứ 4 thì nêu chuyện nhà cửa. Tướng Toàn có đến 3 nhà, có biệt thự cho thuê trốn thuế cả tỉ đồng mà dám viết đơn nói chưa có nhà và dùng binh lực để đòi lại nhà đã bán cho Mặt trận TW và nói Mặt trận Tổ quốc TW lừa đảo (?). Thật là "Lòng tham, là sự tán tận lương tâm, là sự dối Đảng và nhà nước, là ỷ có quyền cao chức trọng mà ép kẻ dưới để trục lợi".
Xin mời các vị đọc 4 bức thư này sẽ rõ hơn về chân tướng của tướng 3 sao công an Nguyễn Khánh Toàn. Có những vị tướng như thế thì làm sao dân ta ngóc đầu lên được, làm sao nước mạnh được???
                                                                                        ( Trần Quốc Hoàn )
Vũng Tàu, ngày 3 tháng 8 năm 2005
KÍNH GỬI: Đ/c Lê Hồng Anh    Bộ trưởng Bộ Công an
Chúng tôi là cán bộ Ban tổ chức Tỉnh ủy Bà Rịa-Vũng Tàu xin có phản ảnh, có kiến nghị này với các đồng chí.
Cả nước đều đồng tình và hoan nghênh đã có quyết định đúng về việc xét xử vụ án kinh tế với Phạm Văn Phương (Phương Vicarren) 27 năm tù và vụ án hình sự với Phạm Văn Hoàng (Hoàng nổ) 14 năm tù. Công luận và dư luận cũng bức xúc băn khoăn vì sao không đưa Ngô Chí Đan ra xét xử. Bởi vì Ngô Chí Đan là Trung tá, Trưởng phòng an ninh điều tra Công an tỉnh, là bà con, là người nhà của Phương Vicaren và Hoàng nổ. 11 vụ Hoàng nổ gây án đều do Đan bảo lãnh nên đều lọt tội. Và Phương lộng hành được với các doanh nghiệp, vì mọi người biết phía sau có Đan. Người ta cũng biết chính Đan đã từng dựng chuyện đe dọa rồi gọi điện yêu cầu giám đốc doanh nghiệp phải nhờ Phương "chạy" cho để khỏi "vô tù". Tuy nhiên, có lẽ vì tình đồng đội nên Bộ công an chỉ xử lý hành chánh - khai trừ Đảng và loại Đan ra khỏi ngành Công an. Quyết định này quá nhẹ - dư luận không đồng tình. Đan rất ngông nghênh. Tỉnh ủy đề nghị phục hồi điều tra với Đan. Sự việc chưa được xử lý thì mới đây chúng tôi nghe tin Bộ trưởng Công an ký quyết định phục hồi Ngô Chí Đan hàm đại uý. Đan nói: Tôi không về hưu, tôi sẽ làm việc và ít nhất tôi phải phục hồi trung tá, Trưởng phòng. Vì sao có quyết định đó? Người ta nói: Đan vẫn từng khoe rằng Đan làm hậu cần cho anh Khánh Toàn (nay là Thứ trường Thường trực, Bộ Công an). Và rằng mọi người đều biết vợ anh Khánh Toàn, chị Gia Liên (nghe nói là Thượng tá an ninh) đã góp vốn vào Công ty taxi Vicarren do Việt em ruột Phương làm giám đốc. Trước khi vụ Phương Vicarren nổ ra, Ngô Chí Đan đã thông báo rằng anh Khánh Toàn đang đưa y lên Cục phó A24 (xét hỏi của Tổng cục An ninh), chị Liên đã cam đoan như vậy nhưng sự việc vỡ lỡ không làm được lại còn ngã ngựa nên nay phục hồi làm Đại uý. Tôi được nghe lãnh đạo tỉnh tôi nói anh Vũ Quốc Hùng phó ban 6/2 đã từng nói rằng: Anh Khánh Toàn công khai nói Ngô Chí Đan là người tích cực chống tiêu cực, việc xử lý kỷ luật Đan là sự áp đặt ở mức khó hiểu. Chả lẽ 1 đ/c Thứ trưởng Công an mà không nhìn ra bản chất xấu xa của Ngô Chí Đan- Hoàng nổ sao? chả lẽ anh Vũ Quốc Hùng cũng không thấy sao? hay có liên quan gì với việc bao che Đan. Chúng ta thấy tính chất nguy hiểm của tập đoàn Mafia này là: Quyền lực của công quyền (Công an) cộng với xã hội đen (Hoàng nổ) để chiếm đoạt, cưỡng đoạt và thao túng (Phương Vicarren). Vũng Tàu đã nhiều năm nín thở vì tập đoàn này. Nếu không có Ngô Chí Đan thì Phương và Hoàng nổ không lộng hành, làm mây mưa, gió bão ở Vũng Tàu suốt cả thập niên được. Và nếu không có vợ chồng anh Khánh Toàn đỡ đầu thì không có sự lộng hành đổi trắng thay đen của Đan. Chỉ cần lật lại trong đầu vụ án Trịnh Vĩnh Bình cũng sẽ thấy ngay vì sao từ việc Vĩnh Bình tố cáo Trịnh Hiền Thanh ở cảnh sát (PC15), rồi biến tố cáo thành kẻ bị tố cáo để bắt Trịnh Vĩnh Bình. Đan cho Trịnh Hiền Thanh thoát tội và ăn tiền của Thanh, Bình vào tù, Đan yêu cầu chuyển qua cho cơ quan an ninh điều tra do Đan phụ trách. Đan đã vào trại giam yêu cầu Bình ký hợp đồng tư vấn do y soạn sẵn để cho Bình tại ngoại với giá 100.000 USD, Vĩnh Bình không chịu ký nên phải bị truy tố. Phải chăng "bản chất tốt đẹp" của Đan mà anh Khánh Toàn khen là như vậy.
Chúng tôi đề nghị các đ/c xem xét lại vụ việc, xử lý nghiêm minh, không thể có việc lộng quyền và vô trách nhiệm như vậy được. Các đ/c cần cử người đi điều tra gặp gỡ CB nhân dân Bà Rịa- Vũng Tàu, gặp một số người như anh Ba Khánh - nguyên Bí thư tỉnh ủy, anh Tuấn Minh đang là Bí thư Tỉnh ủy, anh Ba Nhân Thường vụ tỉnh ủy (nguyên Phó chủ tịch UBND Tỉnh), anh Nguyễn Trọng Minh - Thường vụ tỉnh ủy (nguyên chủ tịch UBND Tỉnh) sẽ thấy sự bất bình và bất minh như thế nào? Hãy tìm xem ai là chủ mưu việc phục hồi lạ lùng này, tôi nghĩ chỉ có thể là anh Khánh Toàn mới làm nổi việc đổi trắng thay đen này. Hãy điều tra xã hội xem Ngô Chí Đan phục hồi có đồng nghĩa với xã hội đen, với Mafia thời nay ở Bà Rịa Vũng Tàu được phục hồi hay không? Bởi vì Đan phục hồi thì Phương và Hoàng sẽ ra tù, tập đoàn Mafia sẽ sống lại và ác độc hơn, khôn ngoan hơn.
Rất mong, rất mong các đ/c làm rõ.
Nguyễn Thành
Cán bộ lâu năm, Ban tổ chức tỉnh ủy    Bà Rịa-Vũng Tàu
Hà Nội, ngày 01/0½005
KÍNH GỬI:
- Đ/c Trần Đức Lương Ủy viên Bộ chính trị, Chủ tịch nước
- Đ/c Nguyễn Văn An Ủy viên Bộ chính trị, Chủ tịch Quốc Hội
- Đ/c Phan Văn Khải Ủy viên Bộ chính trị, Thủ tướng Chính phủ
- Đ/c Nguyễn Tấn Dũng Ủy viên Bộ chính trị, Phó thủ tướng Chính phủ
- Đ/c Phan Diễn UV Bộ chính trị,Thường trực Ban bí thư TW
- Đ/c Trương Vĩnh Trọng Bí thư TW, Trưởng ban nội chính TW
Chúng tôi những anh chị em làm việc ở Bộ Công an rất đau lòng và bức xúc gửi tới các đ/c lá đơn này. Chúng tôi nghe tin Bộ chính trị đồng ý đưa anh Nguyễn Khánh Toàn - Thứ trưởng Bộ Công An lên Thượng tướng. Chúng tôi phản đối quyết định này. Anh Toàn chưa xứng đáng với hàm Trung tướng làm sao lên Thượng tướng được.
Trước nhất xin các đ/c xem xét việc anh Khánh Toàn bao che bảo vệ cho Ngô Chí Đan, nguyên Trưởng phòng an ninh điều tra Công an Bà Rịa-Vũng Tàu bị kỷ luật đuổi ra khỏi ngành. Anh Toàn lên làm việc với Ủy ban kiểm tra nói rằng "Ngô Chí Đan là người tích cực chống tiêu cực, là người tốt". Đ/c Vũ Quốc Hùng đã có thư báo cáo đ/c Phan Diễn về việc này. Sau đó anh Toàn xuống Vũng Tàu bàn và chỉ đạo lãnh đạo công an Tỉnh phải sửa sai, phục hồi cho Ngô Chí Đan. Anh ta nói: Tổng cục an ninh làm bậy, sai luật- ông 3 Dũng hữu khuynh nghe Tổng cục an ninh nên chỉ đạo sai.
Sự thật như thế nào?
- Chính ngô Chí Đan ăn tiền của Trịnh Hiền Thanh làm sai lệch hồ sơ vụ án Trịnh Vĩnh Bình gây đau đầu cho các đ/c.
- Ngô Chí Đan là người nhà của Phạm Văn Phương (Phương xoăn - Vicarent) đã lãnh án 27 năm và Phạm Văn Hoàng (Hoàng xã hội đen) đã lãnh án 14 năm. Nếu không có Đan thì làm sao Phương lộng hành một cõi Vũng Tàu như vậy? Chính Đan đã bao che và Hoàng đã gây ra 11 vụ án hình sự mà vẫn ung dung ngoài vòng pháp luật. Chính Ngô Chí Đan đã tiếp tay cho Phương lừa đảo, chiếm đoạt tiền của doanh nghiệp và cá nhân người khác. Đáng ra phải đưa Ngô Chí Đan ra toà, 1 trung tá an ninh, Trưởng phòng an ninh điều tra mà để người nhà phạm tội, như vậy đã không xứng đáng là cán bộ an ninh đàng này trực tiếp tham gia, trực tiếp bảo vệ, tiếp tay thì còn oan ức nổi gì. Chúng tôi nghĩ đã làm sáng tỏ cần mở chuyên án điều tra lại Ngô Chí Đan, khởi tố Đan mới là công bằng.
Một người đang là Thứ trưởng Bộ Công an không nhận ra chân lý sao? người ta nói chị Liên đã nhận mấy chục ngàn đô la hứa đưa Đan lên Cục phó A24 nên bây giờ chết sống bắt anh Toàn bảo vệ Đan. Để chứng minh mình đúng, anh Toàn quay lưng lại với anh Nguyễn Văn Hưởng (Thứ trưởng) và nhân danh Phó bí thư Đảng ủy CA yêu cầu Tổng cục trưởng, Tổng cục phó An ninh, Cục phó A24 kiểm điểm về việc quản lý bắt buộc Ngô Chí Đan để đấu tranh, kiểm điểm. Một việc làm ai cũng phẫn nộ. Chính lúc đó anh Toàn đã chỉ đạo Đan phải không và không nhận gì hết và chỉ đạo Đan kiện Tổng cục An Ninh ở Bà Rịa-Vũng Tàu từ đ/c Bí thư Tỉnh ủy đến cán bộ thường đều biết việc chỉ đạo này.
Một việc khác nữa các đ/c cũng cần phải xử lý là: Anh Toàn có 1 ngôi nhà rất to ở 32A Trương Định-Quận 3- TP. Hồ Chí Minh đã bắt 1 đơn vị của ngành đứng ra ký hợp đồng cho thuê giá rất cao - hàng trăm triệu một tháng kể từ 1990, 1991 đến nay và không nộp một đồng thuế nào. Chỉ tính 1 năm thu được 1 tỉ 8 (1 tháng 150 triệu) thì 15 năm qua anh Toàn thu trên 20 tỉ- có phải anh Toàn trốn thuế cả tỉ đồng không? Ủy ban kiểm tra TW đã cử 1 tổ vào kiểm tra không rõ vì sao lại dừng, rồi bỏ qua. Người ta nói chị Gia Liên đã chạy gần 1 tỉ đồng để bịt chuyện này, có đúng không? Các đ/c cần hiểu rằng Anh Toàn đã làm việc theo lệnh của vợ là chị Gia Liên. Mọi sự can thiệp, đề nghị, đề bạt cán bộ của anh Toàn tất thảy đều do chị Gia Liên cầm càng. Một người làm theo sự chỉ đạo của vợ thì không thể là tướng quân được chứ làm sao lên Thượng tướng.
Xung quanh chuyện anh Khánh Toàn còn nhiều chuyện. Anh ta là Trung tâm đánh phá vào nội bộ ngành an ninh và cảnh sát, anh ta chỉ bảo vệ cho ngành tình báo của Bộ Công an mà thôi. Chị Gia Liên là ổ tham nhũng hối lộ, chạy chức, chạy ăn.
Chúng tôi đề nghị: các đ/c có điều tra những vấn đề trên về anh Nguyễn khánh Toàn sớm, điều anh Toàn ra khỏi Bộ Công An, ngưng ngay việc lên hàm với anh Toàn và yêu cầu kiểm điểm cho rõ. Chúng tôi có cảm giác Bộ trưởng Lê Hồng Anh bị anh Toàn thao túng và không dám xử lý những vấn đề có đụng đến anh Toàn. Rất có thể nhận định này của chúng tôi về đ/c Lê Hồng Anh là chưa chính xác. Tuy nhiên, nếu Bộ trưởng ra tay thì không có chuyện lộng hành của anh Toàn. Chúng tôi biết các đ/c Lê Thế Tiệm, Nguyễn Văn Hưởng, Thi Văn Tám và các tướng lĩnh ngoài ngành an ninh đều bất bình với anh Khánh Toàn nhưng "lực bất tòng tâm" vì thấy Bộ trưởng im lặng....
Kính mong các đ/c có biện pháp mạnh để xử lý, nhằm đảm bảo sự trong sáng và vững mạnh của ngành Công an.
™. Một số sĩ quan văn phòng Bộ Công An
Trần Minh Ngọc
(bí danh của 1 Đại tá CA)
KHẨN CẤP
Hà Nội, ngày 12/7/2005
KÍNH GỬI: Đ/c Thủ tướng Phan Văn Khải
Thưa đ/c, tôi là một cán bộ lâu năm của Tổng cục V (Tổng cục Tình báo) Bộ Công an. Vì sự an toàn tính mạng, tôi không thể xưng tên chính được, tôi xin ký bằng bí danh đã từng sử dụng trong công tác nghiệp vụ, mong đ/c thông cảm và tin tưởng.
Tôi xin phát hiện việc làm sai nguyên tắc, thiếu tinh thần trách nhiệm, mang động cơ cá nhân của anh Nguyễn Khánh Toàn - Thứ trưởng Thường trực Bộ Công An và anh Trần Quang Bình - Tổng cục trưởng Tổng cục V.
Anh Nguyễn Khánh Toàn có người con trai tên là Trọng, hư hỏng, ăn chơi lêu lổng từ nhỏ. Thú vui cuả Trọng là chơi gái, nhậu nhẹt, kết bè cánh, đặc biệt, Trọng thường có mặt ở các quán bar, động nhảy, do vậy học cấp III phổ thông trầy trật không xong, xin mãi mới có tấm bằng tốt nghiệp. Vì Trọng không chịu học, vợ chồng anh Khánh Toàn đưa vào học Đại học An ninh, Trọng cũng bỏ học đi chơi và không theo học được. Anh Toàn lại đưa qua Đại học Pháp lý, Trọng cũng bỏ học và trở thành cậu ấm nghiện hút, chuyên ăn chơi nhảy muá. Anh Toàn chị Liên thương con, mua cho Trọng 1 xe ôtô hiệu Camry mang biển số đăng ký rất trội bốn số chín (9999), nên Trọng càng mặc sức tung hoành dọc ngang làm anh chị làng chơi, em út "nể trọng", bồ của Trọng là 1 gái điếm hạng sang.
Một "cậu ấm" như vậy bổng dưng trở thành nhân viên chính thức của Tổng cục tình báo Bộ Công An.
Anh Khánh Toàn đã ép anh Trần Quang Bình ký tuyển dụng chính thức con trai mình là Trọng làm cán bộ cuả Tổng cục V. Anh Bình đã răm rắp thực hiện mà không hề trao đổi với các đ/c Tổng cục phó và cũng không làm theo qui trình tuyển dụng cán bộ của Bộ Công an đã quy định.
Đưa người vào ngành Công an sai qui trình là 1 việc cần kiểm điểm nghiêm túc. Lại đưa 1 người nghiện hút, có hành vi đạo đức suy đồi, học hành kém, năng lực yếu vào ngành Công an là việc làm cần xử lý nghiêm khắc. Hơn nưã, người được tuyển dụng lại là con anh Khánh Toàn - Thứ trưởng Thường trực Bộ Công an, phụ trách lực lượng tình báo, thì đây là hành vi sai phạm, xuất phát từ tư lợi, xem lợi ích gia đình trên lợi ích tập thể. Chỉ biết có gia đình mình mà không cần biết đến nguyên tắc, danh dự của ngành Công an. Cứ thử hỏi một dân làng chơi Hà Nội về "Trọng 4 số chín" vì có xe ô tô mang số đăng ký 4 số chín, sẽ được trả lời ngay: đó là bậc đại ca. Vậy mà, khi được làm cán bộ tình báo rồi, Trọng không hề làm gì, tiếp tục trượt dài trên con đường ăn chơi, sa đoạ, có điều chỉ hơn trước là một cán bộ tình báo chuyên ăn chơi. Lực lượng tình báo có thể chấp nhận 1 cán bộ như vậy hay sao?
Không chỉ một mình tôi biết việc này, nhiều cán bộ cuả Tổng cục V, nhất là các đ/c Tổng cục phó (Tổng cục V) đều biết chi tiết việc này. Ai ai cũng bất bình. Nhưng, tất cả đều im lặng trong sợ hãi vì nỗi lo về sự trả thù tàn bạo của anh Khánh Toàn - người đang nắm giữ quyền lực gần như tuyệt đối với tư cách là Phó Bí thư Đảng ủy Công an TW, Thượng tướng, Thứ trưởng Thường trực, trực tiếp phụ trách Tổng cục V và Tổng cục III (Tổng cục Xây dựng lực lượng).
Rất mong các đ/c xem xét, xử lý triệt để, nghiêm khắc, để đảm bảo tính chiến đấu, sự trong sáng cuả lực lượng tình báo nói riêng và ngành Công an nói chung.
Trân trọng.    Hà Nội, ngày 12 tháng 7 năm 2005   Văn Đạo  (Cán bộ lâu năm Tổng cục V Bộ Công An)
TP. Hồ Chí Minh, ngày 13/8/2005
Thưa qúi đ/c,
Tôi là 1 cán bộ cao niên của Sở xây dựng TP. Hồ Chí Minh (trước ở Sở địa chính), vừa qua Báo Công An Thành phố có bài viết về nhà 32 Trương Định và nói rằng đơn vị đại diện Mặt trận Trung ương đã đánh lừa gia đình cụ Tuệ. Tôi bức xúc tìm hiểu thì biết tài liệu do vợ chồng anh Khánh Toàn cung cấp. Từ đó tôi thấy cần viết thư này để phản ảnh với các đ/c về bản chất xấu của 1 cán bộ cao cấp.
Hơn 1 năm trước đ/c Chủ tịch UBND Thành phố chuyển đến Sở chúng tôi lá đơn của anh Nguyễn Khánh Toàn - Thứ trưởng Bộ Công An. Trong đơn có bút phê của Thứ trưởng Nguyễn Văn Tính xác nhận đ/c Toàn chưa có căn nhà nào ở TP. Hồ Chí Minh và xin lại nhà 32 Trương Định - Quận 3. Anh em chúng tôi đều ngạc nhiên sửng sốt bởi lẽ:
Năm 1993 trên khu đất 32 Trương Định, nhà nước đã cắt 1.000m2 đất có nhà để gia đình cụ Tuệ ở và cũng trên 1.000m2 đó chị Phạm Gia Liên (vợ đ/c Khánh Toàn) đã xin phép xây dựng 1 biệt thự, chiếm ½ diện tích phía trước và đã cho thuê suốt 10 năm nay, mỗi năm anh Toàn thu nhập trốn thuế trung bình 120.000 USD gọi là biệt thự 32A Trương Định (đã có chủ quyền). Phần ½ còn lại phía sau có khu nhà cấp 4 bà Nguyễn Thị Thanh Xuân (mẹ vợ đ/c Khánh Toàn) thuê ở và năm 2000 đã được nhà nước bán theo nghị định 61/CP, đã công nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở toàn bộ diện tích nhà và đất cho bà Thanh Xuân (giấy chứng nhận số 525½000 ngày 25/5/2000). Nay bà Xuân đã chết, vợ chồng anh Khánh Toàn thừa kế luôn bởi vì nhà này chung đất với biệt thự của anh Toàn chị Liên là 32A Trương Định. Nếu định giá biệt thự này với đất theo thời giá hiện nay đến 10.000 cây vàng.Vậy mà anh Toàn, chị Liên lại nói chưa có nhà. Bộ Công An lại chứng nhận chưa có nhà. Cán bộ cao cấp như anh Toàn chị Liên lại đi lừa dối nhà nước sao?
Mới đây anh Toàn chị Liên lại chỉ đạo cho Báo Công An Thành phố có bài nói rằng đơn vị kinh tế Mặt trận TW là Công ty Itapha lừa đảo gia đình đ/c Tuệ để chiếm đoạt nhà 32 Trương Định- sự thật như thế nào?
Ngày 18/12/1989 đ/c Phan Trọng Tuệ và vợ là Nguyễn Thị Thanh Xuân ký tên "đồng ý giao 1 phần ngôi nhà 32 Trương Định cho Trung tâm Itapha của Mặt trận TW làm trụ sở. Trừ phần nhà và đất mà tôi đã thỏa thuận dành cho con gái tôi là Phạm Thị Gia Liên được ở và xây dựng nhà theo giấy phép ủy ban xây dựng cơ bản thành phố cấp". Có Ban TCQT Trung ương Đảng xác nhận.
Xin lưu ý rằng: Năm 1989 nhà 32 Trương Định là nhà ông bà Phan Trọng Tuệ thuê của nhà nước và sang lại quyền thuê nhà chứ không phải chủ quyền nhà. Việc chuyển quyền thuê 1 phần nhà này do anh Toàn đề xuất được T78/TW Đảng, Chủ tịch UBND Thành phố, Ủy ban Trung ương Mặt trận đồng ý. Gia đình ông bà Tuệ và vợ chồng anh Toàn đã nhận 250 triệu của Itapha vào thời điểm 1989 là tương đương với 125 lượng vàng có thể mua 1 biệt thự cở 1000m2 đất có chủ quyền đường hoàng.
Tôi xin trích 1 số văn bản tài liệu chúng tôi có để làm rõ việc này:
Biên bản ngày 22/3/1990 giữa Trung tâm Itapha với gia đình ông Phan Trọng Tuệ do bà Nguyễn Thị Thanh Xuân (mẹ vợ) và bà Phạm Gia Liên (vợ anh Toàn) dự và ký. Xác định."Tổng số tiền Itapha đồng ý cho gia đình ông Tuệ là 250 triệu".
Ngày 25/5/1992 bảng giao thanh toán tiền nhà 32 Trương Định cũng nêu rõ:
1)- Công ty Paesco giao lại 12.438.445đ cho bà Nguyễn Thị Thanh Xuân, đây là số tiền còn lại mà Trung tâm Itapha (cũ) đã nợ gia đình bà Xuân.
2)- Mọi cam kết nợ nần giữa 2 bên về ngôi nhà Trương Định trước đây đến nay đã thanh toán dứt điểm. Bà Xuân đã ký và ghi rõ họ tên. Nhà thuê đem bán nhận đủ tiền, giờ lại nói Mặt trận TW lừa đảo là cách nói không phải của người lương thiện.
Ngày 11/7/2000 tại công văn số 2487/UB-ĐT, Ủy ban nhân dân Thành phố gởi Mặt trận tổ quốc TW nói rõ và công nhận Mặt trận TW nhận 1 phần nhà 32 Trương Định làm trụ sở là chính đáng. Bà Xuân nhận tiền và 1006,60m2 đất đã: mua căn nhà 386/10 Lê Văn Sĩ - Quận 3 và xây cho chị Phạm Gia Liên (vợ anh Khánh Toàn) 1 căn nhà để ở tại phần đất trống của khuôn viên gia đình sử dụng (xem coppy kèm theo).
UBND Thành phố cũng đã bán hoá giá toàn bộ phần nhà phụ và đất cho bà Xuân (vợ cụ Tuệ).
Ngày 7/8/2000 Ủy ban TW Mặt trận có công văn 280/MTTW trả lời UBND thành phố nói rõ: "Gia đình đ/c Phan Trọng Tuệ muốn nhượng lại quyền thuê nhà 32 Trương Định cho Trung tâm Itapha, doanh nghiệp của Ủy ban TW Mặt trận TQVN với 2 điều kiện:
1)- Mua cho gia đình đ/c Tuệ 1 căn nhà vừa phải có quyền sở hữu bà Nguyễn Thị Thanh Xuân. 2)- Cắt 1 phần đất trong khuôn viên 32 Trương Định để cất 1 ngôi nhà cho gia đình con gái đ/c Tuệ là Phan Thị Gia Liên.
Trong công văn nói rõ đơn vị Mặt trận đã giao đủ 250 triệu và đơn vị đã được ký hợp đồng thuê nhà với nhà nước, đã sửa chữa sử dụng 15 năm nay. (xem copy kèm theo).
Vậy thì trước đây Bà Xuân, nay là anh Toàn chị Liên còn cái gì ở 32 Trương Định để đòi và đòi một cách quyền lực đến vậy. Anh Khánh Toàn nói mình không có yêu cầu nhà nước cấp nhà?.
Chúng tôi biết Anh Toàn ngoài biệt thự 32A Trương Định còn có nhà ở số 6 Trần Não - Quận 2, có nhà ờ Đường Dân Tộc quận Tân Bình. Sao lại nói chưa có nhà nào?
Phải làm rõ nhà 32A Trương Định của anh Toàn chị Liên 10 năm nay, và cho thuê lấy cả triệu USD (hàng chục tỉ) không nộp thuế - sao ta không truy cứu trách nhiệm.
Từ sự việc cụ thể trên tôi yêu cầu các đ/c xem xét để làm rõ: bản chất vấn đề nàylà gì? là lòng tham, là sự tán tận lương tâm, là sự dối Đảng và nhà nước, là ỷ có quyền cao chức trọng mà ép kẻ dưới để trục lợi, có phải vậy không?
Tôi hy vọng sự thật này là một minh chứng để lật tẩy bản chất của 2 con người mà Đảng ta đã tin lầm đó là vợ chồng anh Khánh Toàn.
Trân trọng.

Lê Văn Kiếm                            

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét