Vũ Minh Trí
Tổng cục II Bộ QP
Tôi có hơn 21 tuổi quân, 18 tuổi Đảng, hơn 10 năm làm việc
tại Tổng cục II – Bộ quốc phòng, đã suy giảm nghiêm trọng niềm tin vào nhiều
cấp lãnh đạo, chỉ huy nhưng vẫn viết bài này vì hai lý do chính:
1/ Để thấy hết thực trạng Tổng cục II và căn nguyên của nó,
cần cả một quá trình tìm hiểu khách quan, sâu rộng của nhiều cơ quan của quân
đội, Đảng, Nhà nước song các cơ quan ấy không thể hoàn thành nhiệm vụ nếu không
lấy dân làm gốc, không dựa vào đông đảo cán bộ, đảng viên, quần chúng, nhất là
số đã và đang công tác ở Tổng cục II.
2/ Thực trạng Tổng cục II cho thấy quân đội ta, Đảng ta, Nhà
nước ta đang gặp phải hiểm họa vô cùng to lớn ngay từ bên trong, ngay ở bên
trên; là người đã nhiều lần tuyên thệ trước Quân kỳ, Đảng kỳ, Quốc kỳ thì phải
ra sức góp phần giúp Quân đội, giúp Đảng, giúp Nhà nước chống lại hiểm họa “tự
diễn biến” ấy chứ không được hèn nhát, buông xuôi.
“Một cây làm chẳng
nên non – Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Mong sao ngoài các trang
viết này, các ý kiến sẽ có thêm nhiều trang viết khác, nhiều ý kiến khác tới
được với người có trách nhiệm và được sử dụng đứng đắn, có kết quả!
Thời gian gần đây, ngay trong Tổng cục II có nhiều ý kiến
cho rằng Tổng cục II đang ở vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng và toàn diện
về lý luận, tư duy nghiệp vụ, phương châm, phương pháp, thủ đoạn, nề nếp, chế
độ công tác, tổ chức lực lượng… Một số ý kiến khẳng định ở Tổng cục II, việc
“lưu manh hóa”, “ngu hóa” Đội ngũ cán bộ khá triệt để, khiến Tổng cục II chẳng
những không xứng là tai tỏ, mắt sáng của quân đội, của Đảng mà xét trên một số
khía cạnh còn có vai trò như một khối u ác tính, trực tiếp đe dọa sự ổn định,
đoàn kết, nhất trí trong quân đội, trong Đảng. Bằng trải nghiệm 10 năm ở vị trí
công tác xác thực. Theo tôi thì Tổng cục II rơi vào tình trạng hiện nay là chủ
yếu và trước hết là do trong 10-15 năm trở lại đây, những kẻ yếu kém cả về phẩm
chất lẫn năng lực đã cấu kết nhau, chui được vào, leo được lên nắm được hết vị
trí chủ trì, chủ chốt của Tổng cục II và lợi dụng tính chất hết sức chuyên biệt
của tình báo để mưu cầu lợi ích riêng bất chính. Vì lợi ích riêng bất chính đó
chúng sẵn sàng làm việc phi nghĩa, phi pháp, sẵn sàng chà đạp lên lợi ích của
cách mạng, của dân tộc. Hiện chúng trở thành thù trong, còn nguy hiểm gấp mấy
lần giặc ngoài. Với chúng, không thể phê bình mà phải quét sạch, cắt bỏ, diệt
trừ.
TỪ CÁI “ MẦM KẾT TINH
”
Chỉ một kẻ xấu không thể làm tê liệt, lũng đoạn hầu hết tổ
chức Đảng, hầu hết cơ quan chính quyền của một ngành lớn, có truyền thống lâu
dài và khá vẻ vang. Một mạng lưới sâu rộng gồm nhiều kẻ xấu cấu kết chặt chẽ
với nhau mới làm được việc ấy. Nhưng để có một mạng lưới như vậy thì lúc đầu
phải có kẻ làm “MẦM KẾT TINH”. Ở Tổng cục II, kẻ đó là Nguyễn chí Vịnh. Nguyễn
chí Vịnh có xuất thân rất tốt, có tư cách tốt nhưng khi đi học lại không phải
là trò ngoan. Người Việt duy tình, có vuốt mặt cũng nể mũi vậy mà Nguyễn chí
Vịnh – con một nhà lãnh đạo lừng danh của quân đội ta, Đảng ta – vẫn bị đuổi
khỏi Trường đại học kỹ thuật quân sự vì vi phạm kỷ luật. Các vụ việc vi phạm kỷ
luật của Nguyễn chí Vịnh có nhiều người biết rõ và còn được kể lại mãi song
hình như chẳng có ảnh hưởng gì tới sự thăng tiến của Nguyễn chí Vịnh, khác hẳn
trường hợp phó tổng cục trương Tổng cục du lịch Nguyễn quốc Kỳ.
Về chính trị cách mạng và nghiệp vụ tình báo cách mạng,
Nguyễn chí Vịnh không giỏi song nhờ hoạt ngôn nên được nhiều người lầm tưởng là
giỏi. Có rất nhiều cách để xác nhận điều này; cho Nguyễn chí Vịnh làm bài kiểm
tra, đọc các nghị quyết, kế hoạch công tác, công trình, đề tài nghiên cứu khoa
học, luận án, luận văn … mà Nguyễn chí Vịnh là tác giả, đồng tác giả, chủ biên,
chủ nhiệm; đọc các bản ghi lại bài nói của Nguyễn chí Vịnh; đánh giá một cách khách
quan, chặt chẽ kết quả và hiệu quả công tác của Tổng cục II trong những năm
dưới quyền Nguyễn chí Vịnh… Nhiều năm qua, Nguyễn chí Vịnh duy trì được vị thế
“chủ trò.” ở Tổng cục II vì có sự vượt trội về xuất thân, quan hệ, tư chất … và
đặc biệt là vì rất giỏi khống chế cấp dưới, o bế, mua chuộc cấp trên, thâu tóm
quyền lực.
Với cấp dưới, Nguyên chí Vịnh khống chế bằng quyền lợi như
cho chức quyền, bổng lộc, nhận người thân vào làm việc trong ngành kết hợp với
đe dọa, truy bức (nếu cần)… Các phần sau sẽ trình bày rõ hơn, cụ thể hơn về
điều này.
Với cấp trên (bao gồm cấp trên trực tiếp, cấp trên không
trực tiếp và cơ quan chức năng của cấp trên), Nguyễn chí Vịnh thường dùng câc
thủ đoạn bắc cầu từ quan hệ cũ sang quan hệ mới, thêm thắt, sử dụng tin tức, tài
liệu để hù dọa những nguy cơ đối với nội bộ, nội địa và đối với bản thân cấp
trên, dùng lợi ích (chủ yếu là lợi ích cá nhân, gia đình) để tiếp cận, mua
chuộc, dùng tỳ vết để đe nẹt, khống chế … Ví dụ:
1- Tổng cục II chỉ là đơn vị trực thuộc Bộ quốc phòng, Đảng
ủy Tổng cục II chỉ là một đảng ủy trực thuộc Đảng ủy quân sự trung ương vậy mà
đầu năm 2008, lãnh đạo, chỉ huy Tổng cục II đã làm một việc chắc chưa hề có
tiền lệ với các bộ, ngành,tỉnh, thành là sau Hội nghị trung ương, mời các ủy
viên trung ương tới dự tiệc chiêu đãi;
2- Thời gian qua, Tổng cục II đã bỏ qua tiêu chuẩn, thu hút,
tiếp nhận con cháu rất nhiều cán bộ cấp cao của quân đội, Đảng, Nhà nước như Lê
đức Anh, Lê văn Dũng, Phùng khắc Đăng, Nguyễn huy Hiệu, Vũ Tuyên Hoàng, Bùi văn
Huấn, Nông đức Mạnh, Phạm hồng Lợi, Cao tiến Phiếm, Nguyễn Hồng Quân, Phạm văn
Trà, Đỗ quang Trung …. Vào đào tạo ở Học viện khoa học quân sự, làm việc trong
Tổng cục II (việc mà thời trước hầu như không có), biến Học viện khoa học thành
tụ điểm xấu (năm 2004, một học viên là cháu ruột Bộ trưởng Bộ nội vụ Đỗ quang Trung
đã tự tử vì vay nặng lãi của một học viên khác là con chính ủy Học viện kỹ
thuật quân sự Hoàng khánh Hưng, không thể trả).
1/ Gần đây Nguyễn chí Vịnh giao cho một cơ quan trực thuộc
tổng cục tưởng Tổng cục II nhiệm vụ tổ chức thu thập thông tin, lập hồ sơ về
nhiều cán bộ cấp cao ngoài Tổng cục II trong khi Tổng cục II không hề có chức
năng, nhiệm vụ bảo vệ an ninh, bảo vệ chính trị nội bộ, thanh tra, kiểm tra
Đảng đối với các tổ chức, cá nhân bên ngoài Tổng cục II.
2/ Cuối tháng 10 – 2008, Nguyễn chí Vịnh lấy cớ ngày thành
lập Tổng cục II để mời trung tướng, tư lệnh Quân khu II Đỗ bá Tỵ và các cán bộ
lãnh đạo, chỉ huy khác của Quân khu II tới dự tiệc tại trụ sở Tổng cục II; một
số cán bộ Tổng cục II khẳng định việc làm này là để đón trước khả năng trung
tướng Đỗ bá Tỵ lên làm Tổng tham mưu trưởng … Không phải ngẫu nhiên mà Tổng cục
II có nhiều ý kiến cho rằng những năm qua, Nguyễn chí Vịnh đã “qua mặt”, đã
“lừa.” được hầu hết lãnh đạo cấp cao của Quân đội, Đảng, Nhà nước, thậm chí “bỏ
túi.” Được các vị Lê đức Anh, Nông đức Mạnh, Phạm văn Trà, Lê văn Dũng, Nguyễn
huy Hiệu, Phạm văn Long … Một số người còn ở Tổng cục II, Nguyễn chí Vịnh đã
một tay che lấp cả bầu trời, khiến người ta không còn nhìn thấy ánh sáng đạo
đức, ánh sáng văn minh của Đảng, của Bác Hồ.
Nguyễn chí Vịnh đặc biệt thu tóm hết quyền lực về tay mình.
Việc Nguyễn chí Vịnh cố giữ cả hai vị trí Tổng cục trưởng và Bí thư Đảng ủy
tổng cục, khiến Tổng cục II trở thành đầu mối cuối cùng trực thuộc Bộ Quốc
phòng thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên gắn với chế độ một người chỉ
huy theo quy định (tới tháng 9-2008 mới có chính ủy), việc 2006 Bộ tham mưu
Tổng cục II được thành lập song tới nay tất cả các cơ quan tham mưu - chỉ đạo
về nghiệp vụ tình báo (gồm Cục 71 và các phòng 72,73 B,C,E) vẫn trực thuộc
Nguyễn chí Vịnh, nằm ngoài Bộ tham mưu, việc Nguyễn chí Vịnh tự tiện sửa tên
gọi “Ban chỉ đạo điệp báo tổng cục” (mà Nguyễn chí Vịnh là trưởng ban), việc
Nguyễn chí Vịnh trực tiếp nắm tất cả các mặt hoạt động, công tác hoạt động quan
trọng nhất của Tổng cục II mà không giao cho các cấp phó cho thấy rõ điều đó.
Hệ quả mà lâu nay lãnh đạo tập thể ở Tổng cục II chỉ còn là hình thức, “Ban chỉ
đạo điệp báo tổng cục.” đã trở thành một nhóm siêu quyền lực, đứng trên Đảng
ủy, Thường vụ đảng ủy tổng cục và trên thực tế, cả Tổng cục II lẫn các điệp báo
của Tổng cục II đều không có tham mưu trưởng đúng như chức trách, nhiệm vụ của
chức danh này.
NHỮNG MẠNG LƯỚI CỦA CÁI XẤU ĐÃ HÌNH THÀNH VÀ LÂY LAN SÂU
RỘNG …
Mã tầm mã, ngưu tầm ngưu. Ở Tổng cục II, từ cái “mầm kết
tinh” là Nguyễn chí Vịnh, những mạng lưới của cái xấu đã hình thành và lây lan
sâu rộng thành tầng tầng lớp lớp.
Lớp thứ nhất chủ yếu gồm những “chiến hữu”, “tiểu đệ” Thời
đi học của Nguyễn chí Vịnh, nổi bật là: Phạm ngọc Hùng (thiếu tướng, ủy viên
thường vụ đảng ủy, phó tổng cục trưởng), Nguyễn minh Tân (đại tá, phó tổng cục
trưởng), Trần việt Thắng (đại tá, đảng ủy viên phó chính ủy Tổng cục), Phan anh
Việt (đại tá, đảng ủy viên Tổng cục, cục trưởng cục 12), Nguyễn anh Dũng (đại
tá, chủ nhiệm chính trị tổng cục), Trần quốc Minh (đại tá, chính ủy cục 16, có
em ruột là em cột chèo của Nguyễn chí Vịnh), Vũ công Hoạch (đại tá, phó cục
trưởng cục 16 có anh ruột là anh rể Nguyễn chí Vịnh), Đỗ anh Tuấn (đại tá, phó
chánh văn phòng tổng cục) … Lớp thứ hai gồm những kẻ Nguyễn chí Vịnh thu nạp
khi bắt đầu có vị trí chủ trì, chủ chốt trong Tổng cục II, nổi bật là: Trần nam
Phi (trung tướng, nguyên phó bí thư Đảng ủy, phó Tổng cục trưởng về chính trị),
Đặng trí Dũng (đại tá, phó giám đốc Học viên khoa học quân sự, em ruột vợ
Nguyễn chí Vịnh), Phan sỹ Minh (đại tá, phó cục trưởng cục 16), Đặng văn Đồng
(thượng tá, phó chỉ huy trưởng trung tâm 701), Nguyễn trọng Hải (đại tá,trưởng
khoa Điệp báo chiến lược bất hợp pháp- Học viên khoa học quân sự), Nguyễn quang
Hải (trung tá, phó cục trưởng cục 12, em họ vợ Nguyễn chí Vịnh), Nguyễn tiến
Bắc (đại tá, trưởng phòng C), Phan hải Quân (thiếu tướng, viện trưởng Viện 70),
Tô xuân Bang (đại tá, trưởng phòng B), Bùi xuân Khiển (đại tá, chỉ huy trưởng
Trung tâm 701), Bùi xuân Khang (đại tá, cục trưởng Cục 71), Dương văn Tước
(thượng tá, trưởng phòng Bảo vệ an ninh – Cục chính trị), Đỗ hồng Anh (đại tá,
trưởng phòng Quân huấn – nhà trường thuộc Bộ tham mưu), Hà ngọc Quỳnh (đại tá,
viện trưởng Viện 501), Phan văn Việt (đại tá, cục trưởng Cục 11), Nguyễn xuân
Long (đại tá, phó chủ nhiệm chính trị Tổng cục), Trần hồng Thanh (đại tá, cục
trưởng Cục hậu cần), Đỗ đông Phú (đại tá, trưởng phòng Tài chính) …. Vì nhiều
kẻ trong số trên vốn là thuộc cấp của Nguyễn chí Vịnh hồi ở Công ty TOSECO (một
tổ chức bình phong kinh tế của Tổng cục II) nên nhiều người vẫn gọi Tổng cục II
là “Tổng cục TOSECO.”.
Gặp môi trường thuận lợi, tế bào ung thư tự lây lan rất
nhanh, khiến khối u ngày càng to và ác tính. Từ lớp thứ nhất, lớp thứ hai đã
sản sinh ra nhiều lớp nữa, kết quả ở Tổng cục II tồn tại hàng loạt mạng lưới có
quy mô, phạm vi, lĩnh vực, mức độ ảnh hưởng khác nhau song đều theo chiều hướng
xấu, chúng mặc sức phát tác, đã làm tê liệt, lũng đoạn hầu hết tổ chức Đảng,
hầu hết cơ quan chính quyền trọng yếu của Tổng cục II. Bao trùm lên tất cả
chúng vẫn là Nguyễn chí Vịnh.
Những kẻ trong lớp ấy, các mạng lưới ấy đặc biệt là những kẻ
giữ vị trí trọng yếu có hai đặc điểm chung.
1- Thứ nhất về năng lực. Chúng vốn chỉ là học sinh, sinh
viên, học viên, cán bộ, sỹ quan … bình thường, không thể hiện được sự nổi trội
so với bạn bè, đồng nghiệp, không qua đào tạo chính quy, dài hạn, tập trung về
chính trị cách mạng và nghiệp vụ tình báo cách mạng, không thật sự kinh qua
hoạt động đấu tranh cách mạng, kể cả trên lĩnh vực tình báo song vào Tổng cục
II, đầu quân dưới trướng Nguyễn chí Vịnh thì lập tức thăng tiến rất nhanh. Ví
dụ: Phạm ngọc Hùng vốn là trợ lý dưới mức trung bình ở Viện công nghệ quân sự
nhưng sang Tổng cục II thì từ thiếu tá lên trung tá, trung tá lên thượng tá,
thượng tá lên đại tá, đại tá lên thiếu tướng đều chỉ mất 2 năm (trong khi niên
hạn của mỗi cấp tá là 4 năm), chưa đầy 10 năm đã nhảy từ vị trí trợ lý lên phó
tổng cục trưởng, ủy viên thường vụ Đảng ủy, thành viên “Ban chỉ đạo điệp báo.”
Của Tổng cục.
2- Đặng trí Dũng vốn là học sinh chậm tiến, học kém, thi
trượt đại học phải đi làm công nhân lao động xuất khẩu ở Đông Âu nhưng vào Tổng
cục II đã liên tục được thăng quân hàm trước niên hạn, chưa dầy 10 năm đã từ vị
trí trợ lý lên đến cục trưởng Cục 16, mới đây được bổ nhiệm phó giám đốc Học
viện khoa học quân sự.
3 – Nguyễn minh Tân vốn là cán bộ kỹ thuật bình thường ở một
nhà máy sửa chữa xe tăng – thiết giáp nhưng sang Tổng cục II đã thăng tiến nhanh,
cuối năm 2007 được đề bạt từ trưởng phòng 73 lên phó tổng cục trưởng tuy không
phải là đảng ủy viên của Tổng cục.
4 – Trần việt Thắng, Trần quốc Minh, Nguyễn tiến Bắc, Nguyễn
quang Dũng, Nguyễn quang Hải, Vũ công Hoạch, Bùi xuân Khiển, Phan anh Việt,
Dương văn Tước … cũng được thăng quân hàm trước niên hạn một vài lần.
Chắc chắn rằng trong lịch sử quân đội nhân dân Việt Nam 50
năm trở lại đây chưa có ai lên cấp, lên chức nhanh như Nguyễn chí Vịnh, Phạm
ngọc Hùng, Đặng trí Dũng, kể cả các anh hùng đánh đông dẹo bắc, lập nhiều chiến
công lớn,các bộ trưởng, thứ trưởng, tổng tham mưu trưởng, chủ nhiệm Tổng cục
chính trị … Vậy mà Nguyễn chí Vịnh, Phạm ngọc Hùng, Đặng trí Dũng, Nguyễn minh
Tân, Trần việt Thắng, Trần quốc Minh, Nguyễn tiến Bắc, Nguyễn quang Dũng, Vũ
công Hoạch, Bùi xuân Khiển, Nguyễn quang Hải, Nguyễn trọng Hải, Đặng văn Đồng …
là những Phù Đổng Thiên Vương trong tình báo, những thiên tài tình báo bẩm sinh
hay tình báo là lĩnh vực quá dễ dàng, không cần học tập, rèn luyện nhiều, không
cần năng khiếu vẫn có thể làm tốt?
Có nhiều kẻ từng bộc lộ lưu manh về kinh tế, chính trị, sinh
hoạt, từng không hoàn thành nhiệm vụ thể hiện sự yếu kém về năng lực hoặc vi
phạm tiêu chuẩn của đảng viên, cấp ủy viên song vẫn được bao che, trọng dụng.
Ví dụ:
1 – Nguyễn trung Hòa từng bị kết án hình sự song vẫn được
thu nhận vào Tổng cục II, Năm 2003 được bổ nhiệm phó trưởng phòng A khi mới là
đại úy, chưa qua đào tạo đầy đủ về điệp báo (trong khi phòng A là phòng tham
mưu điệp báo trọng yếu nhất của tổng cục, trực thuộc tổng cục trưởng và tổng
cục còn rất nhiều cán bộ cấp thượng tá, đại tá chỉ là trợ lý).
2 – Nguyễn trọng Hải năm 2001 là phó trưởng phòng ở Cục 16,
nghe tin ở Trường đại học ngoại thương Hà Nội xuất hiện tờ rơi liền ngông
nghênh đi xe biển xanh vào trường, lấy tư cách cán bộ tình báo để dậm dọa hiệu
trưởng Nguyễn thị Doan, gây xôn xao dư luận, lại có một cơ sở mật làm tình báo
nội bộ bị lực lượng an ninh của ta bắt giữ song năm 2002 vẫn được được đề bạt
trưởng phòng, năm 2003 lên phó cục trưởng, năm 2008 chuyển sang làm trưởng khoa
điệp báo chiến lược bất hợp pháp – Học viện khoa học quân sự tuy trình độ mới
chỉ là cử nhân điệp báo;
3 – Phan sĩ Minh là phó cục trưởng Cục 11, kiêm trưởng phòng
10 (đảm trách địa bàn Tây Nguyên) của Cục 11, không hoàn thành nhiệm vụ, để cấp
trên hai lần bất ngờ trước các vụ động loạn quy mô lớn ở Tây Nguyên, bị kỷ luật
song lại được điều ra Hà Nội làm phó chỉ huy trưởng Trung tâm 701 (tương đương
phó phó cục trưởng), sau đó vào lại Cục 11 làm phó cục trưởng, mới đây quay ra
Hà Nội làm phó cục trưởng Cục 16;
4 – Trần quốc Minh năm 2005 có vợ làm ở một doanh nghiệp Nhà
nước phạm tội tham ô, đã bị công an ta bắt giữ song vẫn được đưa vào danh sách bầu
cử Đảng ủy cục 16, sau đó trúng cử và trở thành ủy viên thường vụ, cuối năm 2008
được bổ nhiệm chính ủy …
Thứ hai là về phẩm chất. Chúng đã và đang bộc lộ rõ ràng,
nhiều khi rất công nhiên, trắng trợn, tác phong tư tưởng cá nhân chủ nghĩa, sự
hám danh, hám lợi đến mức bệnh hoạn, lối sống hưởng lạc, xa hoa, lãng phí ghê
gớm, không hề mang bản chất của giai cấp công nhân, hoàn toàn trái ngược các
tiêu chuẩn của đạo đức cách mạng, không xứng đáng là người lao động, người công
dân lương thiện chứ chưa nói gì đến người đảng viên cộng sản, người quân nhân
cách mạng. Đặc điểm này có thể nhận ra ngay trong đời thường, bằng con mắt bình
thường: chúng xây dựng công sở, mua sắm trang thiết bị làm việc, sinh hoạt, đi
lại cho riêng chúng tiện nghi hơn, hiện đại hơn các cán bộ cấp tương đương và
cả cấp cao hơn trong quân đội, chúng bôi nước hoa thơm phức, mặc thường phục
sang trọng, dùng điện thoại di động, đeo đồng hồ, giây chuyền … rất đắt tiền,
hút thuốc lá, uống rượu hảo hạng; chúng ở trong những ngôi nhà riêng trị giá
nhiều chục tỷ đồng; gia đình chúng có mức sống cao gấp hàng trăm, hàng ngàn lần
những người mà chúng vẫn gọi là đồng chí, đồng đội, đồng bào …
Chúng đều xuất thân từ gia đình sỹ quan, công chức, công
nhân, nông dân, vậy những của cải ấy, chúng lấy ở đâu ra? Chắc chắn rằng chúng
chỉ có thể lấy từ công quỹ, tức là lấy tiền của dân của nước.
Tại sao Công ty TOSECO, Phòng 9 – Cục 12, Cục 15 … - những
cơ quan, đơn vị từng là “cái nôi” Đào tạo ra nhiều cán bộ chủ trì, chủ chốt,
từng được biết đến như những điển hình tiên tiến xuất nhắc nhất của Tổng cục II
đặc biệt là đơn vị có nhiều tiền ngân sách – lại sớm bị giải thể trong khi
nhiều cơ quan, đơn vị khác vốn bị coi là èo uột, là yếu kém vẫn giữ được phiên
hiệu? Không còn nghi ngờ gì nữa, sau khi xây dựng, sử dụng các cơ quan, đơn vị
này như là công cụ để bòn rút công quỹ, để ngụy tạo công lao, thành tích cho
mình, chúng đã tìm cách xóa bỏ để thủ tiêu tang chứng. Nhiều người cho rằng tới
đây Trung tâm 701 và Đoàn K3 cũng sẽ bị giải thể như vậy.
Tại sao Trần việt Thắng, Trần quốc Minh, Nguyễn quang Dũng …
từng bỏ những vị trí công tác hoàn toàn phù hợp theo ngành nghề được đào tạo và
là “mơ ước.” đối với hầu hết bạn bè cùng học để ra ngoài quân đội rồi sau đó
lại nhảy vào quân đội nhưng là làm một chỗ khác, đó là Tổng cục II? Tại sao ở
tuổi 30 – 40, có công ăn việc làm ổn định ở bên ngoài mà Vũ công Hoạch, Nguyễn
tiến Bắc … vẫn nhảy vào Tổng cục II? Bởi vì với chúng, quân đội nói chung, Tổng
cục II nói riêng chỉ là mảnh đất màu mỡ để thâm canh, thu hoạch những lợi ích
riêng bất chính.
Hiện ở Tổng cục II, đặc biệt là ở Cục 16 có dư luận vừa qua
vì chơi chứng khoán mà Đặng trí Dũng mất khoảng 100 tỷ đồng, Trần quốc Minh mất
hơn 200 tỷ đồng và một phần lớn số tiền đó là tiền ngân sách, Dư luận này là
không phải là không có cơ sở, cần được khẩn trương làm rõ.
Chúng là lãnh đạo, chỉ huy cấp cao của tình báo song lại phô
trương hình thức, hám danh, hám lợi đến bệnh hoạn, bất chấp lẽ phải và dư luận,
bất chấp nguyên tắc bí mật của tình báo. Ví dụ:
1/ Sau khi Chính phủ ra nghị định 162/2005 “Quy định thi
hành pháp lệnh tình báo đối với lực lượng tình báo Việt Nam .” Trong đó có nội dung cho
những người làm tình báo chiến lược ở Tổng cục II – Bộ quốc phòng và Tổng cục V
– Bộ công an hưởng phụ cấp đặc biệt từ 15 đến 20% lương chính, Tổng cục V đã
mau chóng triển khai thực hiện theo hướng cấp chức càng thấp, mức phụ cấp càng
cao, Tổng cục II thì bàn đi tính lại mãi mới triển khai theo hướng ngược lại.
2/ Trước đây, kỷ niệm chương của Tổng cục II chỉ có một
loại, dành tặng người công tác trong ngành trên 10 năm, hoàn thành tốt nhiệm vụ
song năm 2007, Tổng cục II lại đưa ra kỷ niệm chương mới gồm 2 loại – loại màu
vàng để tặng chỉ huy Tổng cục, chỉ huy các đầu mối trực thuộc Tổng cục, cán bộ
là tiến sỹ, thạc sỹ tình báo và chính trị, loại màu trắng để tặng chỉ huy các
đầu mối dưới một cấp và các cử nhân tình báo; sau đó, do trong Tổng cục có
nhiều dư luận phản đối, Nguyễn chí Vịnh và phe lũ đã đổi tên gọi “kỷ niệm
chương” Thành “phù hiệu”, thay đổi chút tiêu chuẩn cấp phát và kết quả hiện nay
có rất nhiều người mặc quân phục, đeo “phù hiệu” có chữ “TBQP – GDDI” (viết tắt
chữ “tình báo quốc phòng” bằng tiếng Việt và tiếng Anh) tham gia giao thông,
xuất hiện ở những nơi công cộng.
3/ Chúng đã vận động được Bộ giáo dục – đào tạo mà cụ thể là
phó thủ tướng kiêm bộ trưởng Nguyễn thiện Nhân chấp nhận đặc cách cho Tổng cục
II trong việc xét phong học hàm, học vị, chúng đang ráo riết tổ chức xây dựng
hồ sơ đề nghị xét phong (trong đó có nhiều yếu tố chắc chắn là giả mạo) và rất
có thể tới đây sẽ có hàng loạt lãnh đạo, chỉ huy Tổng cục II và lãnh đạo, chỉ
huy các đầu mối trực thuộc Tổng cục II được đặc cách phong học hàm, học vị, mặc
dù từ trước tới nay không hê làm coongtacs nghiên cứu, giảng dạy, không đáp ứng
được tiêu chuẩn chung nhất của học hàm, học vị (ví dụ về trình độ ngoại ngữ, về
số lượng công trình, đề tài nghiên cứu khoa học đã làm chủ nhiệm hoặc thành
viên), học hàm, học vị đó thì hoàn toàn mang tính hình thức, không hề cần thiết
cho công việc.
4/ Đầu năm 2008, chúng kéo một đoàn ra Trường Sa “làm việc”
và cắt của cán bộ, công nhân viên trong Tổng cục một ngày lương, nói là để ủng
hộ Trường Sa; “làm việc” về, các thành viên trong đoàn đều được khen thưởng đột
xuất.
5/ Trên mặt tiền trụ sở Tổng cục II ở đường Phạm Hùng –
huyện Từ Liêm – Thành phố Hà Nội, Chúng gắn hàng chữ “Tổng cục tình báo” Rất
to, khiến nhiều người đi đường trông thấy phải tò mò, chỉ trỏ (trong khi bề
ngoài Tổng cục II – Bộ công an ở đường Nguyễn văn Huyên – quận Cầu Giấy không
hề có dấu hiệu nào cho thấy đó là cơ quan tình báo).
Trong mươi năm trở lại đây, Nguyễn chí Vịnh và phe lũ hô hào
“giảm bộc lộ, tăng thực lực.”, thậm chí còn khẳng định bằng nghị quyết Đại hội
đảng bộ tổng cục và nhiều văn bản quan trọng khác rằng đây là phương châm đầu
tiên trong bốn phương châm của Tổng cục II, song trên thực tế sự phô trương,
hình thức, hám danh, hám lợi của chúng khiến Tổng cụcII bộc lộ hơn bao giờ hết
về tất cả các mặt. Sự bộc lộ ấy là một trong những nguyên nhân chính khiến thời
gian qua đã có tới hàng trăm tổ chức và cá nhân giả danh, giả dạng là thuộc
Tổng cục II để thực hiện các hành vi lừa đảo (trong khi với Tổng cục V – Bộ
công an, tình trạng này rất hiếm gặp).
Nếu những năm qua Đảng ủy quân sự trung ương và bộ trưởng Bộ
quốc phòng lãnh đạo, chỉ huy, chỉ đạo Tổng cục II nghiêm túc, chặt chẽ, trước
hết là hai vấn đề chất lượng thực hiện chức năng, nhiệm vụ và hiệu quả sử dụng
lực lượng, phương tiện, tài chính thì chắc chắn những mạng lưới của cái xấu ở
Tổng cục II không thể hình thành và lây lan sâu rộng đến như vậy.
NHỮNG CÁN BỘ TỐT MAU CHÓNG BỊ VÔ HIỆU HÓA BỊ TRIỆT TIÊU,
THẬM CHÍ BỊ NHUỘM ĐEN…
Tổng cục II vốn có không ít người tốt, được cán bộ, đảng
viên, quần chúng tín nhiệm song họ đã bị Nguyễn chí Vịnh và phe lũ vô hiệu hóa,
triệt tiêu, thậm chí “nhuộm đen.” Một cách mau chóng bằng nhiều thủ đoạn thâm
độc. Ở đây chỉ nêu ra một vài thủ đoạn chính của chúng.
Một là tách khỏi công việc, tách khỏi các mối quan hệ, đẩy vào vị trí
không phù hợp sở trường, đẩy về hưu, dùng lợi ích của cá nhân, gia đình để mua
chuộc, khống chế, dùng khuyết điểm đã mắc phải để đe nẹt. Ví dụ:
1 – Với đại tá Đào văn Phê (nguyên trưởng phòng cán bộ) năm
1999 chúng đưa đi làm phó cục trưởng về chính trị của Cục 25, năm 2000 đẩy về
là phó chỉ huy trưởng Trung tâm nghiên cứu khoa học tình báo thuộc học viện
khoa học quân sự, tới năm 2004, khi trung tâm này nâng thành Viện 501 trực
thuộc Tổng cục thì chúng đẩy xuống làm trợ lý nghiên cứu;
2 – Với đại tá Nguyễn ngọc Liên (nguyên trưởng phòng cán
bộ); năm 2000 chúng đưa đi làm phó cục trưởng về chính trị ở Cục 16, năm 2003
rút lên làm phó chủ nhiệm chính trị Tổng cục, vài tháng sau lại đẩy ra làm cán
bộ biệt phái ở Ban bảo vệ chính trị nội bộ trung ương.
3 – Với đại tá Trần đình Lý (nguyên phó Viện trưởng Viện
70); năm 2000 chúng đẩy ra làm cán bộ biệt phái ở Cơ quan A47 trung ương, Năm
2007,vì cơ quan này giải thể nên chúng phải rút về Viện 70 xếp làm trưởng
phòng.
4 – Với thiếu tướng Đào quang Cát (nguyên phó bí thư Đang
ủy, phó tổng cục trưởng về chính trị), thiếu tướng Trần tiến Cung (nguyên phó
tổng cục trưởng), trung tướng Lê hải Anh (nguyên phó tổng cục trưởng) và một số
cán bộ chủ trì, chủ chốt đã chuyển công tác hoặc nghỉ hưu khác; chúng dùng các
thủ đoạn như tung tin xấu hoặc lật lại sai phạm về đất đai để hạ uy tín, bịt
miệng…
Với những người giữ vị trí chủ trì, chủ chốt trong Tổng cục
II nhưng không cùng phe cánh với chúng, chúng cũng áp dụng thủ đoạn tương tự.
Ví dụ: 1- Với thiếu tướng Nguyễn hồng Thanh (nguyên phó bí
thư Đảng ủy, phó tổng cục trưởng về chính trị) chúng đẩy ra khỏi Ban thường vụ
đảng ủy ngay giữa nhiệm kỳ, để làm phó tổng cục trưởng “ngồi chơi xơi nước.”
rồi nghỉ hưu;
2 – Với thiếu tướng Lê hoài Thanh (nguyên đảng ủy viên, phó
tổng cục trưởng) chúng ép về nghỉ trước tuổi,
3 – Với thiếu tướng Nguyễn phú Lợi (nay là trung tướng,
nguyên giám đốc Học viện quân sự); chúng đẩy ra làm phó giám đốc Học viện quốc
phòng
4 – Với thiếu tướng Phạm thanh Lân (nay là trung tướng,
nguyên bí thư Đảng ủy, cục trưởng Cục 25); chúng đẩy ra làm cục trưởng Cục đối
ngoại – Bộ quốc phòng.
5 – Với đại tá Vũ quang Miện (nguyên bí thư Đảng ủy, cục
trưởng Cục 11), chúng điều đi làm cục trưởng Cục 71, làm tham mưu trưởng Tổng
cục rồi ép về nghỉ hưu trước tuổi;
6 – Với đại tá Đặng thành Tiên (nguyên đảng ủy viên Tổng
cục, bí thư Đảng ủy,cục trưởng cục 16); chúng điều đi làm giám đốc Học viện
khoa học quân sự.
7 – Với đại tá Trần đình Chiến (nguyên ủy viên thường vụ
Đảng ủy, phó cục trưởng Cục 16), chúng điều đi làm viện trưởng Viện 26 thuộc
Cục 25 rồi đẩy xuống làm trợ lý;
8 – Với đại tá Nguyễn văn Dương (nguyên phó bí thư Đảng ủy,
phó cục trưởng về chính trị Cục 16); chúng điều đi làm chủ nhiệm chính trị rồi
làm trưởng khoa ở Học viện khoa học quân sự.
9 – Với đại tá Đinh văn Tiếp (nguyên phó giám đốc Học viện
khoa học quân sự), chúng đẩy xuống làm hiệu trưởng Trường phổ thông bán công
Trần quốc Tuấn rồi đẩy tiếp xuống làm trợ lý;
10 – Với đại tá Chu ngọc
Nho (nguyên đảng ủy viên,phó giám đốc Học viện khoa học quân sự) chúng đẩy đi
làm tùy viên quân sự ở Trung quốc…
Chúng áp dụng được thủ đoạn trên vì tình báo có những tính
chất chuyên biệt (ví dụ: đòi hỏi cao về sự bí mật, cự ly, đơn tuyến; công việc
rất chuyên sâu; điệp viên, tình báo viên cũng có thể phong hàm thiếu tướng), vì
đa số cán bộ trung cấp, cao cấp của Tổng cục II, có người thân, thậm chí có
nhiều người thân làm việc trong tổng cục vì nhiều vị lãng đạo cấp cao của quân
đội, Đảng,Nhà nước đã bị chúng tiếp cận, lừa mị, tranh thủ, lợi dụng, bản thân
chúng thì nắm trong tay rất nhiều “bổng lộc.” để đem ra ban phát, mặc cả (đất
đai, nhà cửa, công ăn việc làm cho người thân của cán bộ, cấp bậc chức vụ, vị
trí công tác ở nước ngoài, khả năng kéo dài thời hạn phục vụ tại ngũ cho cán
bộ) …
Hai là mượn danh cấp trên để hù dọa. Chúng xuyên tạc văn bản,
phát ngôn của cấp trên để khiến mọi người hiểu rằng Tổng cục II được làm tình
báo nội bộ, nội địa, được cấp trên tin tưởng tuyệt đối, bản thân chúng thì rất
được cấp trên tin cậy, trọng dụng, coi là chỗ dựa. Những nội dung bất lợi cho
chúng trong các văn bản, phát ngôn của cấp trên thì chúng lờ đi, không phổ
biến, quán triệt. Chúng mời bằng được tổng bí thư, chủ tịch nước, thủ tướng
Chính phủ, bộ trưởng Bộ quốc phòng … tới thăm Tổng cục II, và sau mỗi chuyến
thăm ấy,chúng lại tuyên truyền rầm rộ, trên diện rộng về sự “tin tưởng”, “ưu
ái”, “đánh giá cao” mà lãnh đạo cấp cao của quân đội, Đảng, Nhà nước (đặc biệt
là hai vị Nông đức Mạnh, Phạm văn Trà) tới thăm ngành, tới làm việc với lãnh
đạo, chỉ huy của ngành tăng một cách bất thường. Những năm gần đây, ở Tổng cục
II có một nghịch lý là cứ mỗi lần lãnh đạo cấp cao của quân đội, Đảng, Nhà nước
tới thăm và làm việc với Tổng cục thì nhiều cán bộ, đảng viên, quần chúng lại
càng thêm buồn bã, chán nản.
Gần đây, có bốn sự việc khiến nhiều cán bộ, đảng viên, quần
chúng ở Tổng cục II băn khoăn :
1/ Năm 2006, Đại hội đại biểu đảng bộ quân đội đã ra nghị
quyết trong đó có chỉ rõ cả yếu kém, khuyết điểm đầu tiên lẫn bài học kinh
nghiệm đầu tiên của Đảng bộ quân đội nhiệm kỳ 2001-2006 là công tác nắm và đánh
giá tình hình;
2/ Cuối tháng 4-2008, chủ tịch nước Nguyễn minh Triết và thủ
tướng Chính phủ Nguyễn tấn Dũng không tới dự lễ trao tặng danh hiệu Anh hùng
lực lượng vũ trang nhân dân cho Tổng cục II;
3/ Cuối tháng 5-2008, chủ tịch nước Nguyễn minh Triết và bộ
trưởng quốc phòng Phùng quang Thanh tới làm việc trong diện hẹp với lãnh đạo,
chỉ huy Tổng cục II nhưng trước, trong và sau chuyến thăm, Nguyễn chí Vịnh và
phe lũ không hề có hoạt động tuyên truyền, cổ động nào (điều này trái hẳn với
thông lệ);
4/ Tháng 9-2008, hàng chục cán bộ quân đội có chức vụ thấp
hơn hoặc tương đương được thăng quân hàm thiếu tướng, trung tướng, cục trưởng
Cục 25 - Tổng cục II Đỗ văn Nghị cũng được thăng quân hàm thiếu tướng vậy mà ở
Tổng cục II, phó chính ủy Trần việt Thắng, phó tổng cục trưởng Nguyễn minh Tân
đều không được thăng quân hàm thiếu tướng, phó tổng cục trưởng Lưu đức Huy thì
chỉ được bổ nhiệm chính ủy Tổng cục mà không được thăng quân hàm trung tướng.
Người ta tự hỏi phải chăng lãnh đạo cấp cao của quân đội, Đảng, Nhà nước đã
phần nào nhận ra bản chất, thủ đoạn xấu xa của Nguyễn chí Vịnh và phe lũ, phần
nào thấy được tình trạng yếu kém, khủng hoảng của Tổng cục II. Sau đó người ta
lại băn khoăn là nếu đúng như thế thì sao lãnh đạo cấp cao của quân đội, Đảng,
Nhà nước không khẩn trương làm rõ bản chất thủ đoạn xấu xa ấy và có biện pháp
xử lý phù hợp.
Ba là “ngu hóa.”ngu hóa cán bộ một cách có hệ thống.
Tình báo là một trong những hoạt động mang tính xã hội xuất
hiện sớm nhất, hiện nay đã đạt tới trình độ rất cao. Tài liệu nghiên cứu, tham
khảo về tổ chức và hoạt động tình báo Việt Nam (đặc biệt tình báo cách mạng
Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản) và tình báo các nước rất phong
phú, thậm chí còn có thể nói rằng không có nghề nào mà việc làm nghề được sách
báo, phim ảnh mô tả nhiều như nghề tình báo song Nguyễn chí Vịnh và phe lũ
không nghiêm túc nghiên cứu để kế thừa, phát huy, phát triển, vận dụng mà tự “sáng
tạo.” ra thêm một số phương châm, phương thức, hình thức tổ chức sử dụng lực
lượng, cách làm … không phù hợp, thậm chí còn cản trở việc thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của tình báo và bắt mọi người phải thừa nhận, phải chạy theo để rồi bị
mắc kẹt giữa một mớ bòng bong cả về lý luận lẫn về thực tiễn. Ví dụ: Chức năng
“tham mưu chiến lược” của tình báo, phương châm “dựa vào dân mà tìm địch”, quan
niệm “địa bàn trong nước là chủ yếu”, “địa bàn trong nước là quan trọng, sống
còn”, các khái niệm “tình báo hành động”, “cán bộ mật”, “cán bộ hoạt động”, “tổ
trưởng điệp báo địa bàn”, “cứ điểm” và “cứ điểm trưởng” của điệp báo chiến lược
bất hợp pháp, “quan hệ liên minh đặc biệt” của điệp báo chiến lược bất hợp pháp
hướng X …
Chúng bố trí những người chưa thật sự kinh qua thực tế tổ
chức và hoạt động hoặc vốn không làm được việc, vi phạm khuyết điểm ở đơn vị
làm công tác nghiên cứu, giảng dạy tình báo, đặc biệt trên lĩnh vực điệp báo
chiến lược bất hợp pháp. Chúng tổ chức hoạt động tổng kết thực tiễn, phát triển
lý luận rất rầm rộ, tốn kém, huy động sự tham gia của hàng ngàn người song về
cơ bản là mang tính hình thức. Vì vậy, sản phẩm của quá trình nghiên cứu, giảng
dạy tình báo ngày càng suy giảm chất lượng. Hồ chí Minh đã dạy từ tháng 8-1949:
“tình báo là một khoa học.” song đến nay, chỉ cần xem qua tên gọi, mục lục các
luận án tiến sĩ, thạc sĩ tình báo, các giáo trình đào tạo cử nhân tình báo, các
công trình, đề tài tổng kết thực tiễn, nghiên cứu khoa học của Tổng cục II cũng
có thể thấy trình độ tri thức khoa học của Tổng cục II chẳng những ở trình độ
rất thấp mà còn sai lầm, chệch hướng rất nghiêm trọng.
Có lẽ vì thế mà thời gian vừa qua lãnh đạo, chỉ huy Tổng cục
II quy chụp chuyên đề “Xác định rõ đối tượng tình báo, nhận thức đầy đủ bản
chất chủ yếu của đối tượng tình báo, tập trung nhằm vào các đối tượng tình báo
chủ yếu, các mục tiêu tình báo quan trọng”, (phục vụ đề tài “Tổng kết điệp báo
chiến lược bất hợp pháp của tình báo quốc phòng Việt Nam” Của Tổng cục II do
chính Nguyễn chí Vịnh làm chủ nhiệm) là chệch hướng, sai trái, phủ nhận sự lãnh
đạo của Đảng, chống Đảng, chống quân đội, chống Tổng cục II song lại giấu biệt
chuyên đề này đi, không đưa toàn văn ra để các hội đồng khoa học, các tổ chức
Đảng, tổ chức chính quyền, tổ chức quần chúng … nghiên cứu, làm rõ phải trái,
đúng sai.
Việc Nguyễn chí Vịnh và phe lũ tác oai, tác quái hàng chục
năm qua mà không hề bị vạch mặt, chỉ tên, đấu tranh, ngăn chặn một cách thật sự
từ nội bộ Tổng cục II cho phép khẳng định tất cả cán bộ, công nhân viên của
Tổng cục II hiện nay không đủ năng lực và phẩm chất, thậm chí còn cho phép
khẳng định cán bộ của Tổng cục II càng có cấp chức cao thì càng không đáng tin
cậy, trước hết là về chính trị. Nếu có đủ năng lực, họ đã phát hiện ra bản chất
và thủ đoạn xấu xa của Nguyễn chí Vịnh và phe lũ. Nếu có đủ cả phẩm chất, họ sẽ
đứng ra đấu tranh, ngăn chặn chúng ngay ở nội bộ, sẽ tố cáo chúng với cấp trên
mà không nề hà nguy hiểm. Đáng buồn là động cơ cá nhân đã làm mờ đi, thậm chí
làm thui chột tính chiến đấu, tính nguyên tắc của người cộng sản, đã khiến mấy
ngàn cán bộ, công nhân viên của Tổng cục II co lại để tư lợi. Một vài người có
đơn thư gửi cấp trên thì nội dung cũng chỉ xuất phát từ, chỉ liên quan đến
quyền lợi cá nhân, những sự vụ vụn vặt nên không thu hút được sự đồng tình, ủng
hộ của cán bộ, đảng viên, quần chúng trong tổng cục, không thuyết phục, giúp đỡ
được cấp trên.
CUỒNG VỌNG NGUY HIỂM VÀ HỆ LỤY NGHIÊM TRỌNG
Từ bấy dến nay, đặc biệt là trước các kỳ đại hội đại biểu
toàn quốc của Đảng, trong Tổng cục II thường rộ lên dư luận về sự “phát triển”
của Nguyễn chí Vịnh, nào là tạm đi Quân khu 4, Quân khu 7 làm tư lệnh, phó tư
lệnh về chính trị, nào là sang Tổng cục chính trị làm chủ nhiệm, phó chủ nhiệm,
nào là lên bộ làm thứ trưởng, nào là ra Bộ công an làm bộ trưởng, thứ trưởng,
nào là vào trung ương, vào Bộ chính trị, là nguồn tổng bí thư … Nguyễn chí Vịnh
và phe lũ mong ngóng điều đó vì như vậy, tất cả chúng càng có cơ “phát triển”.
Rất may là tớ nay điều đó chưa xảy ra!
Ở Tổng cục II, một số người ít hiểu biết về thuật phong thủy
cho rằng việc tại trụ sở mới của Tổng cục ở đường Phạm Hùng – huyện Từ Liêm –
thành phố Hà Nội, án ngữ ngay cổng chính là một trụ đá chống trời còn tượng đài
Hồ chí Minh với chiến sĩ tình báo thì bị đẩy sang trái, ở trước nhà nghỉ, ở bên
hông nhà ăn cho thấy một cách đầy đủ, rõ ràng cuồng vọng của Nguyễn chí Vịnh và
phe lũ. Nếu để ý rằng ở các công sở như Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ chí Minh,
Học viện chính trị và hành chính quốc gia Hồ chí Minh, Học viện quốc phòng, Học
viện hậu cần, tượng đài Bác đều được đặt ngay trước mặt tòa nhà chính, tại vị
trí trang trọng nhất, thoáng đãng nhất thì sẽ thấy ý kiến trên không phả là
không có cơ sở.
Vì cuồng vọng ấy mà Nguyễn chí Vịnh và phe lũ đã lèo lá hầu
hết lực lượng, phương tiện của Tổng cục II làm sai chức năng, nhiệm vụ tập
trung vào làm tình báo nội bộ, nội địa, thực chất là làm an ninh, phản gián.
Muốn lập “công” lớn, muốn lưu danh sử sách nhưng biết mình
không đủ sức nhằm vào các mục tiêu tình báo quan trọng của các đối tượng tình
báo chủ yếu như Mỹ, Trung quốc, Thái Lan, chúng lại quay ra nhằm cắn vào các
thành tố trong hệ thống chính trị ở nước ta, trực tiếp gây nên tình trạng nghi
kỵ, chia rẽ, rối ren. Chúng đã hù dọa cấp trên là “các phần tử cơ hội, hữu
khuynh rất đa dạng: trẻ - già, đương chức, nghỉ hưu, sơ, trung-cấp cao, lộ
mặt-giấu mặt … Chúng có hầu hết khắp các địa bàn, các cấp, các ngành, các giới…
Mối quan hệ giữa chúng rất chằng chịt, tinh vi, khó nhận biết. Có dấu hiệu
nhiều kẻ còn chìm rất sâu, không ít kẻ hiện đang nắm cương vị rất cao trong hệ
thống chính trị, có kẻ bị tình báo nước ngoài (chủ yếu là CIA) câu móc mua
chuộc, khống chế. Tìm ra đủ yếu tố để vạch mặt, chỉ tên từng đối tượng là nhiệm
vụ cực kỳ cấp thiết nhưng cũng rất khó khăn của tình báo”, đã thu nhập, tạo
dựng thông tin về hàng ngàn cán bộ quân – dân – chính đảng, trong đó có hàng
trăm người từ cấp ủy viên trung ương trở lên như Nguyễn văn An, Nguyễn mạnh
Cầm, Lê văn Châu, Võ văn Cường, Phan Diễn, Phạm thế Duyệt, Lê văn Dỹ, Huỳnh
Đảm, Trần đinh Đằng, Trần bạch Đằng, Nguyễn khoa Điềm, Lê tự Đồng, Võ nguyên
Giáp, Vũ hoàng Hà, Lê thanh Hải, Hoàng trung Hải, Trần Hòa, Vũ quốc Hùng, Võ
đức Huy, Trần quốc Hương, Nguyễn văn Hưởng, Phan văn Khải, Phạm gia Khiêm, Vũ
Khoan, Võ văn Kiệt, Phan như Lâm, Nguyễn đình Lộc, Hồ xuân Mãn, Vũ Mão, Chu huy
Mân, Nguyễn ánh Minh, Mai văn Năm, Nguyễn thị kim Ngân, Hồ Nghinh, Trần minh
Ngọc, Lê khả Phiêu, Ksor Phước, Nguyễn phong Quang, Nguyễn Quyết, Trương tấn
Sang, Lê hoàng Quân, Trần trọng Tân, Nguyễn bá Thanh, Nguyễn phúc Thanh, Võ
viết Thanh, Đoàn duy Thành, Nguyễn văn Thuận, Ngô yên Thy, Nguyễn khánh Toàn,
Ma thanh Toàn, Phan văn Trang, Nguyễn ngọc Trừu, Trần văn Truyền, Nguyễn văn
Tự, Nguyễn Ty, Lê danh Xương. Song thử hỏi hàng mấy chục năm qua chúng đã vạch
trần được bao nhiêu tên cơ hội, hữu khuynh? Chúng dựng lên hồ sơ về nhóm T4
(Trần bạch Đằng, Trần văn Giàu, Trần trọng Tân, Trần văn Tạo) có âm mưu đưa
miền Nam ly khai thành một nước với lá cờ nền vàng sao đỏ, chúng đi đầu trong
việc quy kết Sơn Tùng và nhóm Chiếu ngõ văn, Ngô Thức và nhóm Dịch học … là cơ
hội, cấp tiến hữu khuynh, phản động, là người của địch khiến nhiều điểm chưa
đồng thuận ở nội bộ, nội địa đáng ra có thể trao đổi để đi tới đồng thuận, nhất
trí trên cơ sở lợi ích chung của dân tộc, của cách mạng cabgf trở nên bất đồng
hơn, thậm chí còn đi tới đối kháng. Chúng thu thập, báo cáo nhiều tin xấu về
hàng loạt trí thức có tên tuổi như Nguyễn đình Đầu, Tương Lai, Trần du Lịch,
Nguyễn ngọc Trân, song về cơ bản những tin đó đều không xác thực. Cả Việt kiều
về nước làm ăn như Charles Đức, Đinh hữu Đức, Nguyễn ngọc Mỹ, Hà tôn Vinh, công
dân Việt Nam ra nước ngoài làm ăn như Nguyễn chí Dũng, Nguyễn cảnh Sơn, Nguyễn
nhật Tiến, Võ nguyên Tuệ, Phạm nhật Vượng lẫn công dân Việt Nam làn ở trong
nước như Trương gia Bình, Huỳnh phi Dũng, Mai kiều Liên đều bị chúng nghi ngờ,
theo dõi quy chụp thử hỏi chúng đã chứng minh được ai trong số đó là phản bội,
phản động, là người của tình báo Mỹ? Đi vào nội bộ bạn Lào, bạn Campuchia thì
chúng cũng nghi ngờ theo dõi quy chụp hàng loạt các vị lãnh đạo cấp cao như
Nu-hắc Phum-xa-vẳn, Ô-sa-Căn Thăm-mạ-thê-va, Xổm-xà-vạt Lềnh-xạ-vắt,
Thoong-xing Thăm mạ vông(của Lào), Hun Sen, Chia Sim Sô Khênh (của Campuchia)
là thân Mỹ, thân Trung Quốc, thân Thái Lan, chống Việt Nam song thử hỏi điều đó
có bao nhiêu phần trăm là sự thật?
Dường như ai không ủng hộ Nguyễn chí Vịnh và phe lũ thì đều
bị bọn chúng quy chụp là địch, là người của tình báo Mỹ, đều bị chúng vu
cáo,bôi nhọ,lật đổ. Chúng vừa hô hào “bảo vệ tổng bí thư là bảo vệ Đảng” vừa
tìm mọi cách, dùng mọi thủ đoạn – kể cả những cách, những thủ đoạn xấu xa nhất,
bỉ ổi nhất – để đánh thẳng vào tổng bí thư Lê khả Phiêu, chống lại việc tổng bí
thư Lê khả Phiêu tái cử. Chúng bảo “lật án.” Là đòn nham hiểm bậc nhát mà thế
lực thù địch do Mỹ đứng đầu nhằm vào cách mạng nước ta song với các hành động
nhằm vào Nguyễn mạnh Cầm, Phan Diễn, Trần bạch Đằng, Võ nguyên Giáp, Lê khả
Phiêu, Trương tấn Sang, Trần trọng Tân, Võ viết Thanh, Võ thị Thắng… thì chúng
xứng đáng là bậc thầy về “lật án.”. Chúng chính là kẻ phất cao cờ đỏ để chống
lại cờ đỏ.
Nhiều người ở Tổng cục II rất lo ngại khi thấy giữa thời
bình, khả năng xảy ra chiến tranh đã được Đảng nhận định qua mấy kỳ đại hội là
không có mà Nguyễn chí Vịnh và phe lũ lại xây dựng lực lượng trinh sát bộ đội
nằm trong đội hình Cục quân báo rồi Cục tình báo vốn chỉ ở cấp tiểu đoàn thời
chống Pháp, chống Mỹ, cấp trung đoàn thời chiến tranh hai đầu biên giới phía
Bắc và phía Tây Nam lên thành 3 đoàn “tình báo hành động” là K3,74,94 cả ba đều
có quy mô cấp lữ đoàn (đoàn trưởng được thăng quân hàm tới đại tá), đề do tay
chân thân tín nhất của Nguyễn chí Vịnh nắm, đều đóng ở các đô thị lớn bậc nhất
của đất nước, đều triển khai nhiều hoạt động điệp báo và đều được trang bị các
vũ khí, trang thiết bị đặc chủng, trong đó có mấy chục xe thiết giáp.
Họ tự hỏi: “Tình báo hành động” thực chất là gì? Tại sao các
đoàn “tình báo hành động” đó lại quy mô lớn như vậy trong khi quy mô lực lượng
trinh sát bộ đội của các quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng chỉ ở cấp
tiểu đoàn? Chúng nhằm vào đối tượng tác chiến nào? Rõ ràng lo ngại của họ không
phải là vô cớ.
Vì cuồng vọng ấy mà Nguyễn chí Vịnh và phe lũ đã tìm mọi
cách tiếp cận, tranh thủ, lợi dụng lãnh đạo cao nhất của quân đội,Đảng, Nhà
nước. Chúng hiểu rõ đó là cách có hiệu quả cao nhất để nhảy vọt, đi tắt, đón
đầu, đốt cháy giai đoạn trong việc thăng quan – phát tài của chúng. Hiện trong
Tổng cục II có nhiều ý kiến cho rằng Nguyễn chí Vịnh và phe lũ đã rất thành
ccông đối với tổng bí thư Nông đức Mạnh, nguyên cố vấn ban chấp hành trung ương
đảng Lê đức Anh, nguyên bộ trửng Bộ quốc phòng Phạm văn Trà, chủ nhiệm Tổng cục
chính trị Lê văn Dũng, thứ trưởng Bộ quốc phòng Nguyễn huy Hiệu, đã sử dụng
được năm vị này làm chỗ dựa, làm cái ô che chủ yếu cho các việc làm phi nghĩa,
phi pháp của chúng. Người ta suy giảm niềm tin vào lãnh đạo cấp cao của Quân
đội, Đảng, Nhà nước và nêu ra nhiều nghi vấn, thắc mắc. Ví dụ:
1 – Để làm công tác tham mưu tác chiến cần nắm được ba nội
dung là tình hình địch, tình hình ta và điều kiện chiến trường, trong đó tình
hình địch luôn được nói tới đầu tiên trong các kế hoạch tác chiến, quyết tâm
chiến đấu của người chỉ huy quân sự các cấp, vậy thì tại sao lại đưa Cục tình
báo ra khỏi Bộ tổng tham mưu, nâg nó lên thành Tổng cục tình báo và duy trì mãi
hình thức tổ chức này bất chấp sự phản đối từ nhiều cán bộ cấp cao của quân
đội, Đảng, Nhà nước, cả đương chức lẫn đã nghỉ hưu? Không có tình báo, không
trực tiếp chỉ huy tình báo liệu Bộ tổng tham mưu và tổng tham mưu trưởng. có
còn bao hàm đầy đủ ý nghĩa như tên gọi? (lưu ý rằng dự thảo tổng kết 50 năm
công tác tham mưu chiến lược của Bộ tổng tham mưu cũng ghi rõ rằng Bộ tổng tham
mưu đã sai lầm khi đồng ý cho Cục tình báo tách ra khỏi Bộ tổng tham mưu);
2 – Công tác cán bộ trong quân đội vốn rất chặt chẽ vì yêu
cầu về phẩm chất đạo đức, phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn, bản lĩnh
nghiệp vụ … đối với cán bộ là cao, chức vụ và cấp bậc luôn gắn liền với nhau,
cấp bậc thì có niên hạn và tất cả đã được luật hóa, vậy nhờ ai mà những kẻ có
nhiều tỳ vết, yếu kém cả về phẩm chất lẫn về năng lực như Nguyễn chí Vịnh, Phạm
ngọc Hùng, Đặng trí Dũng, Nguyễn minh Tân, Trần việt Thắng, Trần quốc Minh,
Nguyễn quang Dũng, Nguyễn trọng Hải, Nguyễn quang Hải, Đặng văn Đồng, Nguyễn
tiến Bắc lại thăng quan tiến chức nhanh như thế?
3 – Tại sao năm 2001 Phạm văn Trà lại ký nghị quyết 182 của
Thường vụ đảng ủy quân sự trung ương, cho phép Tổng cục II một cơ quan trực
thuộc Đảng ủy quân sự trung ương và bộ trưởng Bộ quốc phòng – trực tiếp báo cáo
tin tức với tổng bí thư, chủ tịch nước, thủ tướng chính phủ thay vì để Đảng ủy
quân sự trung ương hoặc bộ trưởng Bộ quốc phòng báo cáo? Trong số các cơ quan
cấp tương đương Tổng cục II của Bộ quốc phòng và Bộ công an có cơ quan nào được
phép báo cáo như vậy không?
4 – Tại sao năm 2006 Phạm văn Trà lại ký văn bản cho phép
tổng cục trưởng Tổng cục II – một người không phải là ủy viên trung ương, ủy
viên Đảng ủy quân sự trung ương ký quyết định thăng quân hàm cho cán bộ tới cấp
trung tá trong khi tư lệnh các quân khu, quân chủng (đa phần là ủy viên trung
ương, ủyviên Đảng ủy quân sự trung ương) lúc đó chỉ được ký quyết định thăng
quân hàm cho cán bộ tới cấp thiếu tá?
5 – Tại sao 10 -15 năm qua đã để xẩy ra các vụ việc rất
nghiêm trọng như vụ T4, vụ A10,vụ Sáu Sứ đã để cấp trên hai lần bất ngờ trước
các hành động gây rối quy mô lớn ở Tây Nguyên, bất ngờ trước vụ Lý Tống,bất ngờ
trước nhiều sự kiện quan trọng ở các nước, đã có nhiều cán bộ chủ trì, chủ chốt
bị kỷ luật thậm chí bị đưa ra xét sử đã không lám tốt nhiệm vụ lắm âm mưu thủ đoạn
các đối tượng tình báo, mục tiêu tình báo đối với dân tộc ta, cách mạng nước ta
hầu như đã không có thêm cá nhân nào lập chiến công mới được phong tặng danh
hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân mà tháng 4-2008 Tổng cục II vẫn được
phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân? Suy cho cùng thì
danh hiệu ấy cần cho ai? Lưu ý rằng với tình báo đặc biệt là với điệp báo do sự
ci phối của yêu cầu cự li, đơn tuyến trong tổ chức hoạt động mà số cá nhân Anh
hùng luôn nhiều hơn hẳn số tập thể Anh hùng và cả thời chống Pháp, thời chống
Mỹ lẫn thới chiến tranh hai đầu biên giới ngành tình báo quân sự đều chưa được
phong tặng danh hiệu Anh hùng tuy đã có hàng chục đơn vị Anh hùng, hàng trăm cá
nhân Anh hùng. Cũng cần nói thêm là trong tổng cục II đang có dư luận rằng vừa
qua Nguyễn Chí Vịnh và phe lũ đã bỏ rất nhiều tiền để “chạy Anh hùng”
Trong thời gian qua tác giả của bài viết này đã gửi 5 lá đơn
tơi Đảng ủy quân sự trung ương,thủ trưởng bộ Quốc Phòng thậm chí với cả Uỷ ban
kiểm tra trung ương, kiến nghị những vấn đề không chỉ trực tiếp liên quan danh
dự,sinh mệnh chính trị và sự an toàn của mình – một cán bộ trung cấp của Quân
đội, cua Đảng – mà còn trực tiếp liên quan chất lượng chính trị,chất lượng
nghiệp vụ khả năng hoàn thành chức năng,nhệm vụ của tổng cục II – một cơ quan
cơ mật trọng yếu của Quân đội,của Đảng, của Nhà nước, liên quan viêc chấp hành
nguyên tắc tổ chức, hoạt động của quân đội,của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Đảng ủy quân sự trung ương, thủ trưởng Bộ quốc phòng và Ủy ban kiểm tra trung
ương, thủ trưởng Bộ quốc phòng và Ủy ban kiểm tra tra trung ương đã chậm trễ,
hời hợt trong việc xem xét, giải quyết, ủy viên thường vụ Đảng ủy quân sự trung
ương Lê văn Dũng còn ký, một văn bản gửi Ủy ban kiểm tra trung ương – Đảng ủy
quân sự trung ương thì không trực tiếp gặp gỡ, lấy ý kiến của các tổ chức đảng,
tổ chức chính quyền cấp cơ sở nơi tác giả bài viết này công tác và ý kiến của
cán bộ có nhiều năm công tác trong ngành tình báo quân sự, đặc biệt là các cán
bộ do tác giả bài viết này giới thiệu theo đề nghị của chính Tổ công tác mà còn
gợi ý lãnh đạo, chỉ huy Tổng cục II và tác giả bài viết này cùng kết thúc vụ
việc … Việc này cùng với những việc đã nêu ở trên cho thấy rất rõ rằng Nguyễn
chí Vịnh và phe lũ thật sự là những mầm bệnh vô cùng nguy hiểm, chẳng những làm
hư hỏng hết cơ quan tình báo chiến lược về quân sự - tai mắt của quân đọi, của
Đảng, của Nhà nước, nếu không mau chóng quét sạch, cắt bỏ, diệt trừ thì hậu quả
thật khôn lường.
Vì cuồng vọng ấy mà Nguyễn chí Vịnh và phe lũ đã phớt lờ, bẻ
cong nhiều nguyên tắc, yêu cầu, quy chế, quy định … của quân đội, Đảng, Nhà
mước và bản thân tình báo.
Các văn bản có tính pháp quy của quân đội, Đảng, Nhà nước
đều xác định Cục tình báo – Bộ tổng tham mưu trước kia, Tổng cục II – Bộ quốc
phòng hiện nay là “cơ quan tình báo quân sự.”, “Lực lượng tình báo thuộc Bộ
quốc phòng.”, ấyvậy chúng lại công khai gọi Tổng cục II là Tổng cục tình báo
quốc phòng, lại mổ xẻ khái niệm “quốc phòng.”. Theo ý chúng để xây dựng tổ
chức, triển khai hoạt động trên mọi lĩnh vực, kể cả lĩnh vực nội địa, nội bộ và
các lĩnh vực có thể nói là không gắn gì với công tác quân sự, quốc phòng. Chúng
lừa dối cấp trên, gửi lên nhiều “tin tình báo.” Không rõ nguồn tin, trường hợp
thu tin, không khẳng định được độ xác thực của nội dung thông tin, trong đó
chiếm tỷ lệ lớn nhất và cũng gây tác hại nhất là tin về nội bộ. Tin có nội dung
xấu về người này thì chúng gửi cho người khác, gây nên sự nghi kỵ, chia rẽ, rối
ren. Rất nhiều thông tin là do chúng thêm thắt, ngụy tạo nhằm vu cáo, bôi nhọ,
lật đổ. Thậm chí chúng còn trực tiếp hoặc gián tiếp (sử đụng những “cộng tác
viên”kiểu như Đặng đình Loan) phát tán ra diện rộng một số thông tin loại này,
chẳng hạn thông tin về Võ nguyên Giap, về Nguyễn nam Khánh. Năm 2001, trước Đại
hội IX của Đảng, bị tố cáo là làm tình báo nội bộ sai nguyên tắc, chúng liền tổ
chức chụp lại dưới dạng file máy tính rồi tiêu hủy các văn bản tin tức, tài
liệu có liên quan để xóa dấu vết, đề phòng tình hình diễn biến theo hướng bất
lợi cho chúng. Sau đó chúng vẫn duy trì tổ chức và hoạt động thu thập, xử lý,
báo cáo tin tức về nội bộ. Loại tin này được gọi là tin riêng, được chuyển lên
Nguyễn chí Vịnh qua ban A của cục điệp báo, qua Phòng 73 của Tổng cục mà không
qua phòng nghiên cứu tổng hợp của cục điệp báo, không qua cả Viện 70 của Tổng
cục là các cơ quan có chức năng xử lý tin tức. Ở các phòng điệp báo, cục điệp
báo còn có tâm lý coi trọng tin riêng hơn các tin khác. chúng quả là “đánh
chết, nết không chừa”.
Cần nói thêm rằng chức năng, nhiệm vụ vủa cơ quan tình báo
chiến lược về quân sự đã được quân đội, Đảng, Nhà nước xác định rất rõ ràng.
Nếu hiểu đúng chức năng, nhiệm vụ ấy và là cán bộ, đảng viên, quần chúng tốt
thì người ta sẽ không bao giờ cung cấp tin tức tình báo nội bộ cho Tổng cục II.
Về cơ bản, chỉ có hai loại người thu thập, cung cấp tin tức tình báo nội bộ cho
Tổng cục II:
1 – Những người có trình độ nhận thức yếu kém, hiểu sai chức
năng, nhiệm vụ của Tổng cục II.
2 – Những người hiểu đúng chức năng của Tổng cục II nhưng
muốn thông qua, muốn dựa vào Tổng cục II để thực hiện riêng. Rõ ràng là với
nguồn tin như vậy thì nội dung thông tin rất khó mà chuẩn xác.
Chúng núp bóng nguyên tắc nghiệp vụ, yêu cầu nghề nghiệp để
bẻ cong các mặt công tác tổ chức, cán bộ, kiểm tra, thi đua – khen thưởng,
chính sách … theo bảo đảm nguyên tắc bí mật, bảo đảm yêu cầu cự ly, đơn tuyến,
tinh gọn vậy mà chúng liên tục xáo trộn đội ngũ cán bộ theo chiều ngang, tới
tận cấp thấp nhất là cán bộ hoạt động (có cán bộ mật chỉ trong dăm ba năm mà đã
‘qua tay.” Cả chục cán bộ hoạt động). Hiện ở Tổng cục II có nhiều cán bộ từng
giữ vị trí chủ trì, chủ chốt ở 2/4, thậm chí 3/4, 4/4, cục điệp báo chiến lược
bất hợp pháp (và tương đương) của tổng cục, ví dụ: Phan sỹ Minh (trưởng phòng ở
Cục 12, phó cục trưởng Cục 11, phó chỉ huy trưởng Trung tâm 701 rồi phó cục
trưởng Cục 16), Nguyễn quang Hải (phó phòng ở Cục 11, trưởng phòng ở Cục 16 rồi
phó Cục 12), Trần bá Dũng (trưởng phòng ở Cục 12, phó cục trưởng Cục 11chỉ huy
trưởng Trung tâm 701, cục trưởng Cục 11 rồi cục trưởng Cục 16), Phan văn Việt
(phó cục trưởng Cục 12 rồi cục trưởng Cục 11), Trần tiến Phương (phó phòng ở
các Cục 15,16,12, trưởng phòng ở Trung tâm 701)… Trong hơn 8 năm Nguyễn chí
Vịnh làm tổng cục trưởng, rất nhiều vị trí chủ trì, chủ chốt ở Tổng cục II liên
tục bị thay đổi người nắm giữ; ở đây chỉ nêu ví dụ với vị trí chủ trì tổng cục
và chủ trì các đầu mối trực thuộc tổng cục; phó tổng cục trưởng về chính trị
(nay là chính ủy) – 3 người, chủ nhiệm chính trị Tổng cục – 4 người, chánh văn
phòng Tổng cục, - 3 người cục trưởng Cục 16 – 5 người, cục trưởng Cục 11 – 3
người, cục trưởng Cục 25 – 3 người, Chỉ huy trưởng Trung tâm 701 – 4 người, cục
trưởng Cục 71 – 3 người, phó giám đốc về chính trị (nay là chính ủy) Học viện
khoa học quân sự - 5 người, phó cục trưởng về chính trị (nay là chính ủy) Cục
16 – 4 người, phó cục trưởng về chính trị (nay là chính ủy) Cục 25 – 4 người,
trưởng phòng 73 – 5 người, trưởng phòng C – 4 người, phó chủ nhiệm chính trị
Tổng cục – 9 người (biên chế thường xuyên là 2), phó chánh văn phòng Tổng cục –
5 người (biên chế thường xuyên là 1), đoàn trưởng Đoàn K3 – 3 người, đoàn
trưởng Đoàn 74 -3 người, đoàn trưởng Đoàn 94 – 4 người … Có nhiều cấp ủy bị
chúng điều chuyển công tác quá nửa, thậm chí là toàn bộ cấp ủy viên, có nhiều
cán bộ bị chúng điều chuyển không theo quy hoạch. Ví dụ:
1 – Đại hội đại biểu đảng bộ khoa học quân sự tháng 10 –
2005 bầu Đảng ủy gồm 13 người, Đảng ủy bầu Ban thường vụ gồm 4 người, đến nay,
mới qua nửa nhiệm kỳ mà số thay mới với Đảng ủy là 9/13, với Ban thường vụ đã
là 3/4 (trong đó có bí thư);
2 – Đại hội đại biểu đảng bộ cục 16 cuối năm 2005 bầu Đảng
ủy gồm 13 người, Đảng ủy bầu Ban thường vụ gồm 4 người, đến nay cũng mới qua
nửa nhiệm kỳ mà số thay mới với Đảng ủy là 9/13, với Ban thường vụ đã là 3/4
(trong đó có bí thư, phó bí thư), vị trí bí thư và một vài vị trí khác đã thay
tới lần thứ ba. Chúng còn bẻ cong cả quyết định của trên. Được biết năm 2004
trên có quyết định giải thể Cục 15 cả về tổ chức Đảng lẫn tổ chức chính quyền
để sát nhập vào Cục 16, song chúng lại phổ biếnlà trên có quyết định giải thể
cả hai cục 15, 16 để thành lập Cục 16 mới; trên cơ sởđó, chúng giải thể luôn
các tổ chức Đảng, tổ chức chính quyền của Cục 16 rồi thành lập các tổ chức
Đảng, tổ chức chính quyền mới, trong đó có số cán bộ lãnh đạo, chỉ huy Cục 15 cũ
(là người của chúng) chiếm phần lớn vị trí chủ trì, chủ chốt. Khi ấy nhiều ý
kiến cho rằng Cục 15 đã “đảo chính thành công.” Đối với Cục 16.
Cái tủ để yên thì vẫn là cái tủ, vẫn đựng được đồ. Nếu tháo
lắp, di chuyển nhiều lần thì gỗ có tốt đến đâu, cái tủ vẫn không tránh khỏi
lung lay, xộc sệch rồi biến thành đống củi. Qua sự “luân chuyển.”của Nguyễn chí
Vịnh và phe lũ, những “cái tủ cán bộ.” ở Tổng cục II đã thật sự hư hỏng, không
dùng được nữa.
Chúng làm điệp báo nhưng không tổ chức xây dựng điệp viên, tình
báo viên mà nghĩ ra khái niệm “cán bộ mật”, “cán bộ diện B.” để đưa từ bên
ngoài quân đội vào tổ chức điệp báo hàng ngàn người mà nếu xét theo nguyên tắc,
yêu cầu của điệp báo chiến lược thì hoàn toàn không có khả năng điệp báo (đặc
biệt là về mặt quân sự). Phần lớn số này là người thân quen của chúng. Với các
“cộng tác viên mật”cũng có tình trạng tương tự. Điều kỳ lạ là trong số “cán bộ
mật”, “cộng tác viên mật” đó có rất nhiều người đang làm việc trong các cơ quan
quân – dân – chính – đảng của ta, một số người còn là cán bộ cấp cục –vụ - viện
trở lên. Trên khắp thế giới, từ xưa tới nay, chỉ có chúng làm điệp báo chiến
lược mà không xây dựng điệp viên, tình báo viên. Hiện ở các cơ quan tham mưu,
chỉ đạo, bảo đảm, các nhà trường, viện nghiên cứu của Tổng cục II có hàngtrăm
“cán bộ mật.”, “cán bộ diện B” như vậy trong khi hàng trăm sỹ quan trung, cao
cấp đã tốt nghiệp các học viện, nhà trường quân sự, đã kinh qua thực tiễn hoạt
động quân sự, vốn thuộc “diện A”, vốn làm công tác tham mưu, chỉ đạo, bảo đảm,
nghiên cứu, giảng dạy tình báo, nhiều người còn được đào tạo thêm về ngoại ngữ,
kinh tế, khoa học - công nghệ, đã có một số năm công tác ở nước ngoài … lại bị
chúng đẩy ra “diện B.” để ngồi chơi xơi nước. Có thể nói sự lãng phí nhân lực ở
Tổng cục II là hết sức to lớn.
Chúng dùng tổ chức và hoạt động điệp báo làm bình phong,
dùng kế hoạch điệp báo làm công cụ chủ yếu để bòn rút công quỹ. Có thể khẳng
định trong 10 năm trở lại đây, tất cả các kế hoạch điệp báo có mức kinh phí
đáng kể của Tổng cục II đều ít nhiều mắc sai phạm về mặt kinh tế, tài chính.
Nếu thanh tra, kiểm tra, kiểm toán một cách chặt chẽ, chắc chắn sẽ phát hiện ra
nhiều vụ tham nhũng lớn, nhiều tên tham nhũng lớn.
Trên thực tế Nguyễn chí Vịnh và phe lũ đã biến Tổng cục II
thành cái ao nhà ở đó điều lệnh, chế độ của quân đội, điều lệ, quy chế, quy
định của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước đều bị chúng biến báo theo
hướng có lợi cho chúng. Chúng đã xô đổ nguyên tắc – chỗ dựa, chỗ bấu víu cuối
cùng của cấn bộ, đảng viên, quần chúng, đã vô hiệu hóa khá triệt để các cấp ủy
Đảng và các cơ quan chính trị trong công tác lãnh đạo, công tác Đảng – công tác
chnhs trị liên quan việc thực hiện nhiệm vụ chính trị trung tâm, đã làm tê
liệt, lũng đoạn phần lớn tổ chức Đảng, phần lớn cơ quan chính quyền ở Tổng cục
II.
Vì cuồng vọng ấy mà Nguyễn chí Vịnh và phe lũ đã đẩy Tổng
cục II vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng và toàn diện, hữu danh vô thực
khiến quân đội và Đảng có như lãng, có mắt như mờ.
Trong lịch sử của mình, đây là lúc cơ quan tình báo chiến
lược về quân sự có tổ chức với quy mô lớn nhất (gấp hàng chục lần thời chống
Mỹ), có lực lượng đông đảo bậc nhất, có cơ sở vật chất - kỹ thật và cơ sở pháp
lý đầy đủ nhất, thuận lợi nhất, có mấy chục phó giáo sư, tiến sỹ, thạc sỹ, cử
nhân tình báo (điều mà mấy chục năm trước không hề có và có lẽ Việt Nam là nước
mà tỉ lệ thạc sỹ, cử nhân tình báo quân sự trên tổng số dân cao nhất thế giới),
mấy trăm trợ lý nghiệp vụ giỏi (được công nhận ở các kỳ thi ở cấp cục và cấp
tổng cục), có cả ngàn sỹ quan cấp cao (với gần một chục sỹ quan cấp tướng), có
những tài liệu mang những cái tên rất kêu như “Những vấn đề cơ bản về lý luận
và nghệ thuật tình báo Việt Nam” (tháng 4-1997), “Lý luận và nghệ thuật điệp
báo chiến lược bất hợp pháp của ngành tình báo quân sự Việt Nam trong giai đoạn
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”,(tháng 4-1007), “Những bài học kinh
nghiệm của 50 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của điệp báo chiến lược
bất hợp pháp trong ngành tình báo quốc phòng Việt Nam.”, (tháng 10-1999), “Giáo
trình lý luận nghệ thuật điệp báo bất hợp pháp”, (gồm 4 tập, năm 2002), “ Tổng
kết 60 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Tình báo quốc phòng Việt Nam
(năm 2005)”, “Chiến lược tình báo quốc phòng những năm đầu thế kỷ 21 (tới năm
2020)” (tháng 1-2006), có hàng chục đề tài, công trình “nghiên cứu khoa học.”
đủ để xét đặc cách phong học hàm giáo sư, phó giáo sư, học vị tiến sỹ cho vài
chục cán bộ chủ tri, chủ chốt, lại đang ở trong môi trường hoạt động có thể nói
là rất thuận lợi – nước ta có quan hệ hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển
với tất cả các nước – song công tác chẳng những không phát triển mà còn có
nhiều bước thụt lùi. Tổng cục II đã lộ liễu dính chùm hơn bao giờ hết, đã trở
nên rệu rã, hủ hóa cả về chính trị lẫn nghiệp vụ, thật sự trở thànhmột cái bong
bóng xà phòng và đang chực vỡ trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Việc
Nguyễn chí Vịnh và phe lũ liên tục đưa ra và thường xuyên nhấn mạnh các “nguy
cơ.” Đe dọa Tổng cục II cả từ bên ngoài lẫn ở nội bộ, nội địa càng cho thấy
Tổng cục II đang rất yếu kém. Nếu thật sự mạnh về chính trị và nghiệp vụ, thật
sự làm tốt chức năng, nhiệm vụ, Tổng cục II đã chẳng phải sợ hãi điều gì, đã
chẳng cần dẫn ra các “nguy cơ ” để biện minh, lấp liếm cho mình.
Nguyễn chí Vịnh và phe lũ luôn la lối rằng Tổng cục II là
trọng điểm phát hiện, đánh phá của các thế lực thù địch đối với dân tộc ta,
cách mạng nước ta song thử hỏi 10-15 năm qua đã có bao nhiêu người của Tổng cục
II bị các thế lực thù địch bắt bớ, giết hại? Chắc chắn là ít hơn số bị lực
lượng cảnh sát, an ninh ta bắt giữ. Trên thực tế, chính Nguyễn chí Vịnh và phe
lũ mới phá hoại tổng cục II toàn toàn diện nhất, triệt để nhất. Trước sự phá
hoại ghê gớm của chúng, trước thực trạng bi đát của Tổng cục II hiện nay, có
người nêu câu hỏi:Phải chăng chugs là “điệp viên ảnh hưởng” của các thế lực thù
địch?
Đánh giá như vậy về Nguyễn chí Vịnh và phe lũ có quá mức
không? Hoàn toàn không nếu nhớ rằngtháng 6-1951, trong thư gửi Hội nghị tình
báo Hồ chí Minh đã viết: “ Tất cả mọi công tác, nhất là công tác tình báo phải
kiên quyết tránh những bệnh chủ quan, khinh địch, hiếu danh, cá nhân chủ nghĩa.
Đó là những kẻ địch “vô ảnh, vô hình.” Có nép trong tâm lý của cán bộ và nguy
hiểm hơn mấy Phòng Nhì Pháp cộng lại”. Hoàn toàn không nếu nếu đã đọc hàng loạt
tin tức, tài liệu mà trong đó Tổng cục II nhận định Nguyễn mạnh Cầm, Phan Diễn,
Trần bạch Đằng Võ nguyên Giáp, Nguyễn nam Khánh, Trương tấn Sang, Võ viết
Thanh, Phan văn Trang, Nguyễn ngọc Trừu … là có yếu tố địch. Hoàn toàn không
nếu đánh giá thực trạng Tổng cục II hiện nay một cách khách quan, chặt chẽ,
theo đúng phương pháp tư duy duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và theo đúng
yêu cầu của việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ.
Hồ chí Minh dạy: “Cán bộ là gốc của công việc.”. Trong lịch
sử hơn 53 năm của mình, tình báo chiến lược về quân sự đã nhiều lần được tiếp
máu, thay máu, cụ thể là được điều hàng loạt cán bộ từ bên ngoài vào nắm các vị
trí, chủ chốt và rất nhiều người trong số này đã mau chóng trở thành điệp viên,
tình báo viên giỏi, trở thành cán bộ tham mưu, chỉ đạo, bảo đảm,nghiên cứu chủ
trì, chủ chốt trong một thời gian dài.
ví dụ: Mai Bảo, Phan Bình, Vương thúc Châu, Phan Dĩnh,
Nguyễn hữu Đà, Phan chí Hiếu, Trần Hiệu, Vũ đình Hòe, Trần văn Hội, Trần quốc
Hương, Nguyễn mạnh Koát, Nguyễn văn Kỷ, Phùng hồng Lâm, Nguyễn xuân Mạnh,
Nguyễn văn Mính, Lê trọng Nghĩa, Vũ ngọc Nhạ, Bạch ngọc Phách, Lê hồng Phú, Vũ
hữu Ruật, Trần Sinh, Lê Chinh, Nguyễn trọng Tề, Vũ Thắng, Nguyễn đắc Thân, Phan
sỹ Thị, Tống trần Thuật, Lê hữu Thúy, Nguyễn thúc Tịnh, Nguyễn như Văn, Đinh
thị Vân …
Nay đang ở trong tình trạng khủng hoảng trầm trọng và toàn
diện, đang bị chuyển hóa thành khối u ác trong lòng quân đội, trong lòng Đảng,
ít nhiều phát tác tới bộ óc của quân đội, của Đảng thì rõ ràng tình báo chiến
lược về quân sự cần được mau chóng quét sạch, cắt bỏ, diệt trừ tận gốc những
mạng lưới xấu xa, cần được mau chóng thay máu triệt để để trước hết là trong
sạch về chính trị, sau đó là khỏe mạnh về nghiệp vụ chứ không phải thay màu da
trên xác chết, duy trì một Tổng cục II của Nguyễn chí Vịnh mà không có Nguyễn
chí Vịnh. Đó là kết luận của bài viết này.
Hà Nội ngày 16-12-2008
Vũ Minh Trí
Địa chỉ: Phòng 1302- nhà HH1 – Khu đô thị Yên Hòa
Phường Yên Hòa – quận Cầu Giấy – TP Hà Nội
ĐT: 0422.121.073 - ĐTDĐ:090.216.3633
Địa chỉ: Phòng 1302- nhà HH1 – Khu đô thị Yên Hòa
Phường Yên Hòa – quận Cầu Giấy – TP Hà Nội
ĐT: 0422.121.073 - ĐTDĐ:090.216.3633
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét