Nguyễn Quang Dy
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ
những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc…” (Hồ Chí Minh, trong “Tuyên ngôn Độc
lập”).
Tôi viết bài này nhân ngày sinh cụ Hồ, một nhà cách mạng không cực
đoan như các đồng chí của mình, nên ông là một lãnh tụ cô đơn. Đó là điều
Archimedes Patti đã kể với tôi vào tháng 5/1990 khi ông đi Việt Nam lần cuối để
dự sinh nhật cụ Hồ. Tháng 9/1945, Patti là đại diện OSS ở Hà Nội. Hy vọng họ
vẫn là bạn khi gặp lại nhau ở thế giới bên kia.
Trong một số bài trước (như “Cực đoan và Thù
hận: Nguyên nhân Mọi Tai họa”, 22/11/2015, và “Vô cảm và Cực
đoan sẽ Cản đường Hòa giải”, 10/6/2016), tôi đã đề cập
đến cực đoan như một yếu tố chủ chốt gây ra mọi tai họa trên đời này, nhưng có
lẽ như thế vẫn chưa đủ. Vì vậy trong bài này, tôi muốn đề cập tiếp đến cực đoan
như một chủ đề riêng.
Định nghĩa
Theo Wikipedia,
cực đoan là một hiện tượng phức hợp (complex phenomenon) bao gồm tín ngưỡng
(belief), thái độ (attitude) cảm xúc (feeling), hành động (action), chiến lược
(strategy), có tính chất “bất bình thường”. Cực đoan là loại ý thức hệ
(ideology) được người ta coi là nằm ngoài “dòng chủ lưu” (mainstream) được xã
hội chấp nhận. Thái độ cực đoan (extremist) khác hẳn với thái độ ôn hòa
(moderate) hay trung dung (centrist). Trong chính trị, tư tưởng cực đoan thường
bao gồm xu hướng cực tả (far-left) hoặc cực hữu (far-right), cũng như tư tưởng
cấp tiến (radicalism), cuồng tín (fanaticism), chính thống (fundamentalism)…
Theo Từ điển
tiếng Việt, cực đoan là hiện tượng khi sự việc “quá nghiêng về một phía”,
với mấy đặc điểm chính: (1) là “hai đầu tận cùng của vật thể”, (2) là “thái
quá, không bình thường”, (3) là “vô cùng và cực độ”… Theo chuyên gia Nguyễn Tất Thịnh, “chủ nghĩa cực đoan là tập hợp
những luận điểm thành chủ thuyết” để
xây dựng và phát triển một tổ chức mang tính chính trị, “trở thành độc
tôn/độc tài/độc trị (từ cá nhân lãnh đạo cao nhất xuống đến các tế bào tổ chức)
bao trùm mọi mặt đời sống trong những không gian địa lý mà nó đã lan đến”.
(“Chủ nghĩa cực đoan như thế nào”, Nguyễn Tất Thịnh, chung ta.com, 8/5/2015).
Cực đoan gồm tư tưởng cực đoan, xu hướng cực đoan, và hành động
cực đoan. Trong tiếng Anh, cực đoan có thể dịch là
“extreme/extremist/extremism, hoặc ultra” như trong từ ghép “ultra-nationalism”
(chủ nghĩa dân tộc cực đoan). Từ “cực đoan” (extremist) thường được người ta
dùng để mô tả những người hay các phe nhóm đã trở thành “cấp tiến”
(radicalized). Tuy nhiên, việc đánh giá những người nào, phe nhóm nào, hoạt
động nào là “cực đoan” hay “bình thường” là do nhận thức chính trị chủ quan của
mỗi người.
Nhận dạng
Tư tưởng cực đoan
Tư tưởng cực đoan thường gắn liền với cuồng tín (fanaticism), bảo
thủ (conservatism), độc tài (authoritarianism), hận thù (hatred) và bạo lực
(violence). Cực đoan thường dẫn đến ngộ nhận và mù quáng (nên vô minh), hoặc
tham lam và tự phụ (nên vô cảm). Một khi tư tưởng cực đoan đã đi vào tiềm thức
và não trạng thì rất khó thay đổi. Theo các nhà khoa học (neuroscientists), tư
tưởng cực đoan có thể lây lan, thậm chí có thể di truyền (genetically).
Cực đoan về kinh tế
Tham vọng “Đại nhảy vọt” (Great Leap Forward) của Trung Quốc là một
ví dụ điển hình của cực đoan về kinh tế. Tuy đã thất bại thảm hại, nhưng người
Trung Quốc không từ bỏ chủ nghĩa dân tộc Đại Hán, vẫn muốn phục thù dân tộc.
Nay với thành quả to lớn của phát triển kinh tế, chủ nghĩa dân tộc Đại Hán đã
thai nghén ra tham vọng “Giấc mộng Trung Hoa” (China Dream) và kế hoạch “Một
vành đai, Một con đường” (One Belt, One Road).
Cũng như Kế hoạch Mrachshall và “Giấc mơ Mỹ” (American Dream),
tham vọng đó của Trung Quốc là chính đáng (nếu ôn hòa). Nhưng trong khi Trung
Quốc dùng “quyền lực mềm” (lợi ích kinh tế) để lôi kéo các nước bằng “Charm
Offensive”, thì họ bộc lộ tư tưởng cực đoan và tham vọng bá quyền, như quân sự
hóa nhằm độc chiếm Biển Đông. Trung Quốc coi Việt Nam là khâu yếu nhất dễ khuất
phục vì bị ràng buộc bởi cam kết “Thành Đô” và tương đồng về ý thức hệ, vì hai
nước cùng theo mô hình “kinh
tế thị trường định hướng XHCN”.
Cực đoan về chính trị
Cực đoan về kinh tế thường phản ánh và gắn liền với cực đoan về
chính trị. Trung Quốc và Việt Nam đều theo học thuyết “Đấu tranh Giai cấp”
(class struggle) và “Chủ nghĩa Xã hội mang bản sắc Trung Quốc” (hay Việt Nam)
là biểu hiện điển hình của cực đoan về chính trị. Nó đã từng kích hoạt những
chủ trương cực đoan và ấu trĩ tả khuynh như “trí,
phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”, cũng như cuộc vận động “Cải cách
ruộng đất” và đàn áp “Nhân Văn - Giai Phẩm”. Đó là hệ quả của chủ nghĩa cực
đoan Maoism xuất khẩu sang các nước láng giềng như Việt Nam. Tư tưởng cực đoan
và bạo lực vốn là thương hiệu của Đảng Cộng sản Trung Quốc, như Mao đã từng
khẳng định, “quyền lực đẻ ra
từ nòng súng” (Mao Zedong).
Nhưng tư tưởng cực đoan không phải là độc quyền và đặc sản của các
nước cộng sản. Phong trào Trumpism (tại Mỹ) với khẩu hiệu “America First” và
“Make America Great Again” cũng như Brexitism (tại Anh) và Le Penism (tại
Pháp), là sự trỗi dậy của trào lưu dân tộc, quay lưng lại với toàn cầu hóa và
chính trị truyền thống. Cũng may mà cử tri Pháp đã bỏ phiếu chọn Emmanuel
Macron lên làm tổng thống (chứ không phải Marie Le Pen). Châu Âu đang đứng
trước một cuộc khủng hoảng kép của trào lưu Brexitism và làn sóng di cư của
người Ả Rập Bắc Phi, với những hệ quả khôn lường do xung đột về văn hóa và tôn
giáo.
Cực đoan về văn hóa, xã hội
Tư tưởng và hành động cực đoan không chỉ tồn tại trong hoạt động
kinh tế và chính trị, mà còn ẩn tàng trong sinh hoạt văn hóa của cộng đồng, do
bị ảnh hưởng bởi tư tưởng cực đoan, biểu hiện dưới nhiều hình thức đa dạng. Mỗi
năm Việt Nam có gần 8000 lễ hội, trong đó có nhiều hủ tục cực đoan và bạo lực
đến phản cảm, ăn sâu vào tâm thức và não trạng của cộng đồng. Chính quyền các
tỉnh thành đều mắc “hội chứng tượng đài”, một biểu hiện cực đoan đầy tốn kém và
lãng phí, nhưng là mảnh đất màu mỡ cho “tham nhũng văn hóa”.
Có lẽ Việt Nam là nước có nhiều tượng đài nhất nhì thế giới. Riêng
Hà Nội có hơn 30 tượng đài, và người ta định xây thêm hơn 30 tượng đài khác từ
nay đến năm 2020. Theo thống kê, cả nước có 137 tượng đài Hồ Chí Minh các loại,
tại 31 tỉnh thành. Bộ “Văn-Thể-Du” đề xuất từ nay đến năm 2030 sẽ xây thêm 58
tượng đài Hồ chí Minh trên cả nước.
Ai cũng biết cụ Hồ khi còn sống đã ra sức kêu gọi “cần kiệm liêm
chính…”. Ban Tuyên giáo cũng ra sức kêu gọi cả nước học tập “làm theo gương của
Bác Hồ”. Chắc Bác buồn lắm, khi thấy các quan tham và nhóm lợi ích “ăn của dân không từ một thứ gì”,
thậm chí đem hình ảnh của Bác ra làm dự án để kiếm chác, trong khi người dân
còn nghèo đói và thất nghiệp, nợ công chồng chất và ngân sách nhà nước thu
không đủ chi. Gần đây, Bộ “Văn-Thể-Du” còn định dựng mô hình con khỉ Việt Kong
tại Hồ Gươm để “quảng bá du lịch”. May mà UBND thành phố Hà Nội đã bác kế hoạch
đó (trước phản ứng bất bình của dư luận).
Ô nhiễm thực phẩm, nguồn nước, không khí đã tới mức báo động. Mỗi
năm, Việt Nam có khoảng 115.000 người chết vì ung thư, trung bình 315 người
chết mỗi ngày. (VietnamNet, 22/12/2016). Nếu Hà Nội nổi tiếng với quyết định
chặt hạ 6700 cây xanh (năm 2015) thì Việt Nam gây sốc với 8.600 người chết vì
tai nạn giao thông (năm 2016), trung bình mỗi ngày 24 người chết và 60 người bị
thương. (VnExpress, 17/1/2017). Trong khi đó, Việt Nam là nước tiêu thụ
nhiều bia nhất nhì thế giới (khoảng 3 tỷ lít/năm), xếp thứ nhất ASEAN và thứ 3
ở Châu Á (chỉ sau Trung Quốc và Nhật Bản). Nếu tính giá bia Hà Nội, thì người
Việt uống một lượng bia vào khoảng 3 tỷ USD/năm. Đó là hệ quả của cực đoan!
Biểu hiện
Một số dấu hiệu cực đoan
Thứ nhất, những người cực đoan thường chỉ thích nói mà không chịu
lắng nghe, và chỉ nghe những gì mình thích, mà bỏ ngoài tai những gì mình không
thích, không cần biết đúng sai, phải trái. Họ quen độc quyền, độc đoán, độc
tài, nên vô cảm, không có lòng nhân ái vị tha. Thứ hai, họ thường khẳng định ý
kiến của mình (luôn đúng), và phủ định ý kiến người khác (luôn sai), không
thích nghe phản biện và không chịu thừa nhận thực tế. Thứ ba, họ thường bảo thủ
cứng nhắc, coi thường người khác, nên không chịu thỏa hiệp và hợp tác, hay dị
ứng với cái mới và sự khác biệt. Họ hay định kiến và cố chấp, nên thường ngộ
nhận.
Mấy bài học về cực đoan
Thứ nhất, hầu hết các chính khách cực đoan và cuồng tín của cả hai
phía (cộng sản và chống cộng) đều có những đặc điểm chung giống nhau như độc
tài, tham lam, và dối trá. Thứ hai, người Việt thường mang nặng ân oán, nhưng
lại nhẹ dạ cả tin, nên dễ bị lợi dụng và lừa gạt bởi những chính khác cực đoan
nhưng mỵ dân, chuyên đầu cơ chính trị. Thứ ba, muốn hòa giải và hòa hợp với
nhau, người Việt phải thoát khỏi định kiến, thù hận và lo sợ. Họ phải bạch hóa
và giải độc quá khứ để làm rõ sự thật, thì mới kiến tạo được tương lai.
Cực đoan và khủng bố
Thứ nhất, chủ nghĩa khủng bố là con đẻ của chủ nghĩa cực đoan và
bạo lực, là hệ quả của cuồng tín và ngộ nhận dẫn đến nhầm lẫn về lý tưởng và
các giá trị cốt lõi. Thứ hai, để chống khủng bố, không chỉ tiêu diệt các căn cứ
và đầu não của IS hay Al Qaeda, vô hiệu hóa sự bảo trợ ngầm của các nước và tổ
chức liên đới, mà còn phải chống cực đoan và cuồng tín. Thứ ba, phải vận dụng
tổng hợp cả sức mạnh cứng (giải pháp quân sự hiệu quả) lẫn sức mạnh mềm (văn
hóa giáo dục) để từng bước vô hiệu hóa và hóa giải tận gốc chủ nghĩa cực đoan.
Nguyên nhân
Theo chuyên gia Nguyễn Tất Thịnh, chủ nghĩa cực đoan được hình
thành bởi “lỗ đen văn hoá xã hội” (social/cultural black holes) cộng với
“khoảng trống của con người” (human vacuum). Chủ nghĩa cực đoan thường khởi đầu
“phi chính thống”, nhưng tự nó dần dần trở thành chính thống và mạnh lên dần để
rồi cuối cùng buộc chính quyền và cộng đồng phải công nhận nó. Vì vậy, để loại
trừ được lý do và không gian ra đời của chủ nghĩa cực đoan, Việt Nam cần đổi
mới thể chế chính trị đã lỗi thời, và xây dựng một nhà nước dân chủ vững mạnh.
Tuy nhiên, độc tài và độc đảng thực ra không phải xấu (nếu ôn
hòa). Nó chỉ xấu và nguy hiểm khi trở thành cực đoan và tham nhũng. Singapore
(cũng như Hàn Quốc và Đài Loan) trong giai đoạn phát triển và “cất cánh” để trở
thành các “con rồng/con hổ” kinh tế tại Châu Á, là một mô hình phát triển khá
độc tài và gần như độc đảng. Các nước này chỉ thực sự dân chủ hóa sau khi đã
phát triển thành công như những quốc gia công nghiệp phát triển.
Trung Quốc đã cải cách kinh tế thành công, “cất cánh” vượt Nhật
Bản trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới (chỉ sau Mỹ). Nếu Trung Quốc
tiếp tục theo đuổi mô hình phát triển “độc tài bền vững” (authoritarian
resilience) như David Shambaugh đánh giá, thì chắc Mỹ và phương Tây vẫn ủng hộ
Trung Quốc trỗi dậy (ôn hòa) bằng “constructive engagement”. Nhưng Tập Cận Bình
đã lái “Giấc mộng Trung Hoa” theo xu hướng cực đoan, thách thức trật tự quốc tế
cũ do Mỹ cầm đầu, và muốn thay thế bằng luật chơi mới của Trung Quốc, bắt nạt
các nước láng giềng yếu hơn (như Việt Nam và ASEAN) là đồng minh và đối tác của
Mỹ.
Nếu Trung Quốc có thái độ ôn hòa và thiện chí, biến Biển Đông
thành “cái ao chung” để khai thác (cùng có lợi) và tự do hàng hải theo luật lệ
quốc tế, thì chắc không nước nào phản đối. Nhưng Trung Quốc đã có thái độ cực
đoan và ngạo mạn, bắt nạt các nước láng giềng, quân sự hóa Biển Đông để biến nó
thành “cái ao riêng” của mình, bất chấp luật lệ quốc tế và lợi ích chính đáng
của các quốc gia khác có chủ quyền tại Biển Đông. Thái độ ứng xử của Trung Quốc
tại Biển Đông, cũng như quan hệ hợp tác với các nước khác trong khuôn khổ “Một
Vành đai, Một con đường” là thước đo xem ông Tập Cận Bình định ôn hòa hay cực
đoan. Nếu Trung Quốc ôn hòa thì sẽ được cộng đồng thế giới và ASEAN ủng hộ, dù
Trung Quốc có vượt Mỹ, trở thành cường quốc kinh tế số một thế giới (một cách
chính đáng).
Bài học
Tại nước Đức, trong thập niên 1930 của thế kỷ trước, Chủ nghĩa
Quốc Xã (National Socialism) là một trào lưu được nhiều người Đức ủng hộ.
Hitler đã vận dụng quan điểm về chủng tộc và dân tộc Đức (trong “Main Kamp”) để
lên cầm quyền, và lái trào lưu dân tộc chủ nghĩa theo xu hướng cực đoan, trở
thành Chủ nghĩa Phát-Xít (Fascism), một mô hình độc tài toàn trị được quân sự
hóa cao độ. Hitler đã xô đẩy nước Đức và Châu Âu vào một cuộc chiến tranh tàn
khốc làm 60 triệu người chết và 90 triệu người bị tàn phế. Riêng Liên Xô có
khoảng 23-27 triệu người chết, và Ba Lan có 5,6 triệu người chết (bằng 16% dân
số). (Wikipedia).
Tại nước Nga, sau khi lên cầm quyền, Stalin đã thanh trừng các phe
phái, trở thành nhà độc tài và lái Liên bang Xô Viết (USSR) đi theo xu hướng
cực đoan, trở thành một nhà nước độc tài toàn trị. Trong các cuộc thanh trừng,
khủng bố, và nạn đói dưới thời Stalin, khoảng 20 triệu người đã bị chết, trong
đó có 2,7 triệu người chết trong các trại “Gulag” (theo các sử gia và học giả
như như Simon Montefione, Alexander Yakolev, và Jonathan Brent).
Tại Trung Quốc, trong giai đoạn “Đại Nhảy vọt” (Great Leap
Forward, 1958-1961) và “Cách mạng Văn hóa” (Cultural Revolution, 1966-1976) ước
tính có khoảng 36-46 triệu người đã bị chết do nạn đói khủng khiếp nhất trong
lịch sử nhân loại, hoặc bị tù đầy, tra tấn và hành quyết trong các đợt “thanh
trừng” nội bộ (với khoảng 2,5 triệu người bị chết).
Tại Việt nam, trong giai đoạn Cải cách Ruộng đất (1949-1956), ước
tính có khoảng 50.000 người đã bị chết, hầu hết do xử oan, điển hình là bà
Nguyễn Thị Năm (Cát Hanh Long). Năm 1956, tại Hội nghị TW10, lãnh đạo Việt Nam
đã chính thức thừa nhận nguyên nhân trực tiếp dẫn đến những sai lầm nghiêm
trọng, phổ biến và kéo dài trong cải cách ruộng đất là do “hiện tượng độc đoán chuyên quyền
đã trở nên trầm trọng” (TW5,
5/10/1956).
Tại Campuchia, dưới thời Khmer Đỏ cầm quyền (1975-1979) khoảng 2
triệu người đã bị chết do tai họa diệt chủng. (Theo Benjamin Valentino,
Dartmouth College). Những vụ giết người hàng loạt như vậy thường được phân
thành mấy loại: “thanh trừng giai cấp” (classicide), “thanh trừng chính trị”
(politicide), “thảm sát” (democide), và “diệt chủng” (genocide). Theo sử gia
Martin Malia, có khoảng 85-100 triệu người trên thế giới đã trở thành nạn nhân
của vấn nạn cực đoan và bạo lực. (“Le Livre Noir Du Communisme”, Martin
Malia, 1997).
Hòa giải
Phải chăng tư tưởng cực đoan và lòng hận thù, là di chứng của cuộc
chiến tranh hủy diệt đẫm máu (chủ yếu là do nội chiến) vẫn còn đeo đẳng cả hai
phía, làm vô hiệu hóa những nỗ lực và cơ hội hòa giải dân tộc. Cực đoan và vô
cảm thường dẫn đến ngộ nhận và vô minh. Nhiều năm sau chiến tranh, người Việt
trong nước và hải ngoại vẫn là nạn nhân của cực đoan và hận thù, bạo lực và
khủng bố. Nhiều người Việt lo sợ chế độ cộng sản đã phải liều mạng vươt biển để
định cư tại Mỹ, nhưng vẫn “sống trong sợ hãi” vì bị những đồng bào cực đoan của
họ khủng bố vì bất đồng quan điểm. Đó là một nghịch lý và một sự thật đáng buồn.
Chắc nhiều người còn nhớ, khi bộ phim “Terror in Little Saigon”
(Frontline & ProPublica) được PBS công chiếu (12/2015) thì tranh cãi lại nổ
ra trong cộng đồng người Việt tại Mỹ liên quan đến vụ giết hại 5 nhà báo gốc
Việt bị nghi là do tổ chức “K-9” của “Mặt trận” Hoàng Cơ Minh (tiền thân của
đảng Việt Tân) đã gây ra, để bịt miệng và răn đe những nhà báo nào đi tìm sự
thật về những hoạt động mờ ám của tổ chức này (giai đoạn 1981-1990).
Những người Việt cực đoan mang nặng hận thù, dù đứng ở phía nào
trên sân khấu chính trị, (cộng sản hay chống cộng) đều giống nhau. Cực đoan
thường dẫn đến độc tài và độc quyền; Cuồng tín thường dẫn đến bảo thủ và nhầm
lẫn; Thù hận thường dẫn đến bạo lực và xung đột; Tham lam thường dẫn đến tham
nhũng và chiếm đọat. Muốn chống khủng bố, phải chống tất cả những thái cực nguy
hiểm đó, là nguồn gốc của mọi tai họa trên đời này.
Kết luận
Vì cực đoan dựa vào sức mạnh cứng, vô cảm và bạo lực hay dẫn đến
xung đột và chiến tranh, nên hòa giải và hòa hợp đòi hỏi lòng nhân ái và vị
tha, thái độ ôn hòa và thiện chí. Chỉ có sự tử tế và ôn hòa mới giúp ta vượt
qua được chấp và ngã, mới tạo ra sức mạnh mềm để hóa giải hận thù và định kiến,
ngăn ngừa bạo lực và tội ác. Nói cách khác, muốn biến gánh nặng của quá khứ
thành vốn quý cho tương lai, phải “biến
lưỡi gươm thành lưỡi cầy”.
Chắc loài người vẫn chưa quên thảm họa diệt chủng tại Campuchia do
Khmer Đỏ gây ra, có bàn tay của Trung Quốc, do bóng ma của chủ nghĩa Mao đầy
cực đoan và bạo lực xô đẩy. Chính vì vậy mà người Myanmar đã quyết dân chủ hóa
để thoát Trung. Những gì đang diễn ra tại Biển Đông là sự tiếp nối hay lặp lại
của lịch sử, nhưng đầy thách thức mới.
Chỉ có dân chủ hóa và thoát Trung mới thoát khỏi định mệnh như cái
vòng kim cô về ý thức hệ đã kìm hãm và kéo lùi lịch sử Viêt Nam nhiều thập kỷ.
Biển Đông vừa là nguy cơ có thể mất chủ quyền, vừa là cơ hội để thoát Trung.
Việt Nam đã bỏ qua nhiều cơ hội đổi mới. Vì vậy, phải đổi mới thể chế chính trị
đã lỗi thời trước khi quá muộn. Cụ Hồ chắc chắn sẽ phù hộ dân tộc đổi mới vì “quyền được sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc”.
19/5/2017
N.Q.D.
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 19-5-17
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét