Người Việt Books/ Văn Việt
6-6-2016
Nhà văn Nguyên Ngọc
xuống đường biểu tình mùa hè 2012. Ảnh: internet
Tiếp theo: Hồi ký Lê Phú Khải – Lời ai điếu
(4 kỳ) — Hồi ký Lê Phú Khải: Lời ai điếu
(kỳ 5) — Hồi ký Lê Phú Khải: Lời ai điếu
(kỳ 6)
NGUYÊN NGỌC
Nguyên Ngọc bảo tôi: “Năm 1962 tôi trở lại
chiến trường Khu 5 ác liệt, cán bộ địa phương vứt cho tôi một cái rìu và nói:
Cầm lấy cây rìu này đi chặt cây phát nương trồng tỉa mà sống đã… Viết lách gì!”
Vậy mà ít lâu sau, Tướng Chu Huy Mân mời ông
lên gặp và đề nghị: “Cậu hãy viết một bài Bình
Ngô ĐạiCáo” cho cuộc kháng chiến này”. Nguyên Ngọc đã về viết tùy bút Đường chúng ta đi đem đến cho
Tướng Mân. Ít lâu sau Tướng Mân lại bảo nhà văn: “Cậu hãy viết một bài Hịch tướng sĩ cho chúng tôi đi”. Nguyên Ngọc lại về
viết truyện ngắn Rừng xà nu dem đến cho Tướng Mân. Cả hai tác
phẩm bất hủ này đều được đưa vào sách giáo khoa văn học dạy trong chương trình
phổ thông trung học. Ai dám bảo viết minh họa là dở?! Không biết các thầy cô
giáo dạy văn, khi giảng những bài văn này có biết xuất xứ của nó như thế, như
Nguyên Ngọc đã kể cho tôi nghe trong chuyến đi An Giang năm 2012? Trong buổi
giao lưu với giáo viên và sinh viên khoa Ngữ Văn trường Đại học An Giang hôm
đó, một thầy giáo của khoa đã độc tấu bản trường ca Rừng xà nu của Nguyên Ngọc. Cả hội trường im
phăng phắc nghe thầy giáo nọ, với giọng Nam Bộ chuẩn, ca theo lối ca cổ của Nam
Bộ… Tôi không rành các làn điệu này nhưng nghe thấy hay và bất ngờ vì Rừng xà nu đã được “chuyển thể” đầy sáng tạo
như thế. Nguyên Ngọc đã lên tận sân khấu ôm lấy tác giả giữa tiếng vỗ tay của
mọi người.
Đêm về nhà khách của trường, Nguyên Ngọc còn
kể cho tôi nghe xuất xứ của bài bút ký nổi tiếng Dũng sĩ núi Thành. Hồi đó (1965), Mỹ mới đổ quân vào
Việt Nam .
Ở Tam Kỳ Đà Nẵng (bây giờ là huyện Núi Thành), hàng trăm máy bay trực thăng dày
đặc cả bầu trời. Lệnh của Tướng Mân là “nắm thắt lưng địch mà đánh”, đánh phủ
đầu, đánh phơi xác để lại cho nó kinh hồn bạt vía, đánh để cho thế giới biết
rằng Mỹ cũng đánh được và quân địa phương cũng đánh được Mỹ, vì thế chỉ điều
một đại đội quân địa phương để tiêu diệt một đại đội chính quy của Mỹ.
Nguyên Ngọc nói: “Chưa đánh mà đã chuẩn bị
“Hội nghị Dũng sĩ diệt Mỹ” vào cuối năm đó, đủ biết tự tin thế nào. Đêm đó tôi
nằm ngay dưới chân Núi Thành. Quân Mỹ mới nhảy xuống, chưa kịp làm công sự,
chúng lấy các bao cát xếp thành công sự. Trong đêm tối như mực, quân ta lăn xả
vào đánh xáp lá cà, đánh toàn bằng dao găm”. Tôi ngắt lời nhà văn: “Nó to lớn
thế sao ta đánh nổi?” Nguyên Ngọc nói: “Trong cuộc chiến xáp lá cà ăn nhau là
sự nhanh nhẹn, to xác càng dễ chết”. Ngay trận đầu, Mỹ chết để lại những cái
xác bị tiêu diệt bằng dao găm… Nó hoảng lắm… Tôi đã viết bài Dũng sĩ Núi Thành ngay dưới chân Núi Thành đêm đó,
gửi ra cho Đài TNVN phát”.
Đêm đó chúng tôi nói chuyện tới khuya. Sở dĩ
Nguyên Ngọc mỗi lần vô Sài Gòn hay gọi điện cho tôi và đi đồng bằng hay rủ tôi,
vì, cũng như bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, ông muốn tìm hiểu về đồng bằng sông Cửu
Long. Các nhà văn hóa như Nguyễn Khắc Viện, Nguyên Ngọc bao giờ cũng quan tâm
đến văn hóa của mọi miền đất nước. Đêm đó, tôi đã kể cho nhà văn hóa Nguyên
Ngọc rằng, ở nơi cùng trời cuối đất của Tổ quốc Việt Nam là đồng bằng sông Cửu
Long, đừng ai nghĩ rằng văn hóa thờ cúng ông bà của người Việt bị phai lạt. Một
lần tôi đi theo một cái ghe chở hàng suốt 11 ngày trên sông nước Cửu Long, đã
được nghe ông chủ ghe tâm sự: Đi buôn đường sông thì chỉ đi buôn tủ thờ là lời
nhất. Ông giải thích: Nếu thầy – ông kêu một ký giả như tôi bằng thầy – đi vào
một vùng đang khai hoang như Đồng Tháp Mười mà thấy ghe chở chum vại vào bán
thì biết ngay là người ta đang khẩn hoang. Nhưng nếu thấy chở tủ thờ vào bán
thì biết là đã khai hoang thành công. Người đi khẩn hoang khi đã sống được trên
mảnh đất vừa vỡ hoang, dựng nhà để định cư lập nghiệp lâu dài… thì nghĩ ngay
đến lập bàn thờ ông bà. Vì thế, bán tủ thờ, người bán nói bao nhiêu thì người
mua trả bấy nhiêu, không trả giá bao giờ. Nếu chồng có trả giá thì người vợ
mắng ngay: Mua đồ thờ ông bà mà trả giá cái gì!”
Nghe tôi kể đến đấy, Nguyên Ngọc đang nằm,
ngồi nhỏm dậy, chỉ tay vào tôi và nói: “Cậu phải viết lại câu chuyện đó!”
Nguyên Ngọc là như thế. Cái gì là khí phách
của Việt Nam , là đạo lý của
Việt Nam
thì phải viết cho thiên hạ biết. Ông bảo tôi: “Nhà văn sinh ra là để nhìn thấy
cái mà người khác không nhìn thấy”.
Có một điều tôi “phát hiện” ra là: đang nói
chuyện tỉnh như sáo, ông có thể ngủ ngay và ngáy o…o… Trời phú cho ông sức khỏe
và thần kinh thép như thế nên suốt hai cuộc kháng chiến gian khổ, ông luôn ở
hàng đầu của chiến tuyến. Ở tuổi 80, ông vẫn đi mọi miền của đất nước. Nay ở
ngoài đảo Thổ Chu, mai ở Tây Nguyên, mốt ở Việt Bắc. Vẫn đi, vẫn viết. Ông bảo
tôi: “Suốt 13 năm tôi là cán bộ rồi bí thư xã ở một vùng ác liệt nhất thời
chống Mỹ. Tôi xác định là mình sẽ hy sinh nên rất bình tĩnh. Trước một trận càn
của địch, chi bộ họp lại, bàn thật kỹ phương án tác chiến. Khi đã bàn xong thì
ung dung ngồi đánh cờ chờ giặc đến để đánh”.
Một con người như thế mà Đài Truyền hình Hà
Nội dám đưa hình ảnh ông cùng các trí thức trong cuộc biểu tinh chống Trug Quốc
xâm lược biển Đông ở Hà Nọi với lời thuyết minh kèm theo rằng đó là những người
bị thế lực thù địch dụ dỗ mua chuộc! Thế mà tên giám đốc Truyền hình Hà Nội lại
không bị cách chức, sa thải!
Hiện thực đó của đất nước đã “đẩy” Nguyên
Ngọc đi đến cùng khi nhà văn nhận ra chân tướng của những kẻ đang cầm quyền.
Ông kể với tôi: “Một hôm bà Nguyễn Thị Bình “triệu tập” một nhóm trí thức hơn
10 người lại, đặt câu hỏi: Chúng ta sai từ bao giờ? Mọi người đều nói: Sai từ
năm 1951, khi đại hội lần thứ hai của Đảng lấy “chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Mao Trạch Đông” làm kim chỉ nam cho mọi đường lối chính sách của mình. Riêng
tôi nói: Sai từ đại hội Tour. Bà Bình không đồng ý. Vậy mà sang hôm sau bà bảo
tôi: Chị đã suy nghĩ suốt đêm qua, em nói đúng đấy!”
Nguyên Ngọc phân tích cho tôi: ta và anh Tàu
cùng một đẳng cấp phong kiến nên trong lịch sử có lúc thắng lúc thua nhau.
Nhưng Pháp nó hơn ta một đẳng cấp. Nó là xã hội đã có văn minh cả vật chất lẫn
tinh thần. Học nó để mà canh tân đất nước rồi giành độc lập cũng chưa muộn.
Dùng vũ lực để giành độc lập, sau đó thì anh nông dân vô học lên cầm quyền,
không nâng cấp được xã hội mà còn dìm xã hội xuống thấp hơn bao giờ hết. Kẻ
nghèo đói lên nắm quyền thì vơ vét và vơ vét. Thực tế đã chứng minh điều đó. Nó
hủy hoại cả văn hóa dân tộc. Đi con đường của Phan Châu Trinh là duy nhất đúng.
Ông nói điều này không chỉ với tôi ở An Giang bữa đó, ông còn nói trong một
cuộc gặp gỡ có mặt nhiều trí thức ở Sài Gòn như Tiến sĩ Vũ Trọng Khải, nhà văn
Phạm Đình Trọng, Thạc sĩ Mai Oanh, nghệ sĩ Hồng Ánh…
Từ Sài Gòn, xem mạng thấy Nguyên Ngọc đi đầu
trong cuộc biểu tình ở Hà Nội, tôi đã viết bài Thơ tặng một nhà văn:
Có những con người mang nỗi nhục áo cơm
Có những con người mang hồn thiêng sông núi
Đất nước nào chẳng thế phải không em?
Anh lẫn đi trong đám biểu tình
Nhưng tất cả vẫn nhận ra
Vì anh là nhà văn cao lớn nhất
Đứng ngang tầm khát vọng của nhân dân.
Cho tôi hôn vầng trán rất Quảng Nam
Suốt đời cãi cho lẽ phải
Có những con người như thế
Đất nước này không thể suy vong
“Đường chúng ta đi” còn lắm gai chông
Vẫn còn Nguyên chất Ngọc
Anh xuống đường
“Đất nước đứng lên”
“Rừng xà nu” lại nổi bão giông…
TPHCM 8/2011
Sau khi trang mạng Bauxite đăng bài này,
nhiều trang mạng khác đã đăng lại… kèm với ảnh Nguyên Ngọc đang giơ cao tay
trong đám biểu tình. Ánh mặt trời chói sáng trên vầng trán rộng của ông.
Viết thêm:
Nguyên Ngọc ghét nhất Trần Đăng Khoa. Tôi
hỏi ông vì sao? Ông trả lời: “Vì trong một bài viết Khoa đã ví tôi với… Tố
Hữu”(!!!)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét