Võ Văn Kiệt
Được các đồng chí gửi cho đọc bản “Báo cáo tổng kết lý luận
và thực tiễn 20 năm đổi mới” và mời góp ý kiến, tôi đã dành thời gian đọc kỹ,
suy ngẫm xem có thể góp được gì vào nội dung hết sức quan trọng này.
Là người có trải qua nhiều chặng đường trong sự nghiệp cách
mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng suốt 65 năm qua, cũng đã có một số năm chỉ đạo
hoạt động kinh tế ở nhiều cương vị khác nhau, do đó, cũng phần nào có điều kiện
đi đây đi đó, làm việc và tiếp xúc với bên ngoài, có dịp trao đổi với nhiều nhà
lãnh đạo của một số nước, tôi cũng tích luỹ được một số hiểu biết, một số kinh
nghiệm. Trong vài ba năm gần đây, tuy rời khỏi những vị trí trách nhiệm được
Đảng và Nhà nước phân công, song tôi chỉ “rời nhiệm sở” chứ không rời trách
nhiệm của người đảng viên đối với sự nghiệp của Đảng và của nhân dân ta. Với ý
thức trách nhiệm và tính chiến đấu của người cộng sản, tôi vẫn cố gắng cống hiến
phần đời còn lại cho sự nghiệp lớn của chúng ta. Vì vậy, tôi vẫn cố gắng đi đến
những nơi mà mình còn có thể đến được, nắm bắt thực tế để có thể góp phần của
mình một cách thiết thực và cụ thể vào công tác của Đảng, trao đổi về công việc
với các đồng chí vốn đã từng làm việc với tôi ở các địa phương và các ngành.
Tôi cũng dành thời gian tiếp xúc với nhiều anh chị em hoạt động trên nhiều lĩnh
vực kinh tế, văn hoá, khoa học, nghệ thuật... để lắng nghe những ý kiến tâm
huyết của họ, giúp chuyển tải những ý kiến đóng góp của họ đến những nơi cần
thiết.
Chính vì thế, tôi vẫn có được những thông tin giúp mình suy
nghĩ, cân nhắc để hôm nay có thể thẳng thắn và chân thành trao đổi với các đồng
chí đang làm công tác tổng kết về lý luận và tổng kết về hoạt động thực
tiễn, một công tác mà theo nhận thức của tôi, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng
ta, đối với sự nghiệp của nhân dân ta trước những thách đố gay gắt chưa có tiền
lệ, cũng như trước những vận hội cần phải nắm lấy, không thể để tuột khỏi tay
mình. Để cho công tác tổng kết lý luận và tổng kết hoạt động thực tiễn
có thực chất, có ý nghĩa trực tiếp và lâu dài đối với sự nghiệp của Đảng ta và
của nhân dân ta, cần xác lập một thái độ trung thực và có trách nhiệm,
dám nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật như Đại hội
VI đã lấy đó làm phương châm để mở đầu cho sự Đổi Mới.
Trên tinh thần đó, tôi xin thẳng thắn trình bày những ý kiến
của mình về nội dung của báo cáo tổng kết và đưa ra những kiến nghị. ý kiến của
một cá nhân, tất nhiên có những hạn chế của nó. Nhưng nếu trên tinh thần dân
chủ và minh bạch trong tranh luận, ý kiến đó được đưa ra trao đổi (phạm vi trao
đổi, đương nhiên phải do tổ chức quyết định) một cách thật mạnh dạn,
trung thực và chấp nhận sự tranh luận cởi mở và thật sự dân chủ, thì
chắc sẽ gặt hái được nhiều kết quả thiết thực và bổ ích, thúc đẩy công tác lý
luận đổi mới về nội dung và phương pháp khắc phục tình trạng “chưa theo kịp
sự phát triển và yêu cầu của cách mạng”, “còn không ít vấn đề cụ thể đặt
ra từ thực tiễn chưa có lời giải đáp hoặc giải đáp chưa đủ sức thuyết phục”,
“phương pháp tư duy chưa vươn tới tầm biện chứng, còn dừng lại ở trình độ cảm
tính, ở chủ nghĩa kinh nghiệm hoặc thực dụng” như Nghị quyết của Hội nghị
lần thứ 5 BCHTƯ khoá IX đã chỉ ra. Nghị quyết cũng đã lưu ý rằng: “những yếu
kém bất cập nêu trên là do chưa đặt đúng mức việc chỉ đạo đổi mới nội dung,
phương pháp công tác tư tưởng, lý luận trong giai đoạn mới”.
Tôi mong rằng, bằng những hành động thiết thực trong tổ chức
trao đổi và góp ý kiến vào Bản tổng kết lần này, tinh thần cơ bản của nghị
quyết nói trên sẽ được thực hiện một cách nghiêm túc và có chất lượng. Trên ý
nghĩa đó, tôi sẽ trình bày những ý kiến và kiến nghị của tôi về những vấn đề
sau đây:
Một số ý kiến về nội dung tổng kết lý luận
Trước hết tôi thấy đáng ghi nhận là trong bản tổng kết này
các đồng chí đã cố gắng xới lên rất nhiều vấn đề, trong đó có nhiều vấn đề rất
phức tạp, khá hóc búa cả về lý luận cũng như về thực tiễn, mà trước đây hoặc
chúng ta chưa đề cập tới, hoặc đề cập không thấu đáo, thậm chí lệch lạc. Đó là
ưu điểm và cũng là một bước tiến của bản tổng kết này so với nhiều bản tổng kết
trước đây.
Tuy nhiên, trong bản góp ý này, tôi sẽ không đi sâu vào
những ưu điểm. Thiết nghĩ hữu ích hơn là lưu ý một số khía cạnh, một số
vấn đề để các đồng chí tham khảo và hoàn thiện bản tổng kết tốt hơn.
Chúng ta biết, sau một chặng đường dài phát triển, Đại hội X
sắp tới mang một sứ mệnh rất nặng nề là : lái con thuyền Việt Nam
như thế nào trong dòng chảy lớn của sự phát triển thế giới trước mắt.
Bây giờ chúng ta không thể chỉ đặt ra vấn đề của Việt Nam như chuyện trong nhà, mà là
chuyện ganh đua với thế giới để tồn tại và phát triển.
Một lần nữa, thử thách lớn của lịch sử lại đặt ra trước Đảng
ta. Sau khi làm cách mạng thành công, rồi tiến hành chiến tranh giải phóng, mở
cửa và đổi mới, đến nay nước ta đứng trước một thách đố mới : phát triển
nhanh và bền vững, hội nhập trong độc lập, đi tiếp trong nhịp chung của thế
giới, làm sao không vấp ngã, không tụt hậu. Cuộc thách đố này
trước hết đòi hỏi một sự bứt phá mạnh dạn về tư duy, về đường lối, về tổ chức,
trong đó đặc biệt quan trọng là tổ chức Đảng và Hệ thống chính trị, về chính
sách và biện pháp. Vì thế, vấn đề không chỉ đơn giản
là nói như thế nào để mọi người vừa lòng, mà là vạch đường chỉ lối, tìm ra giải
pháp tối ưu cho đất nước, cho dân tộc, cho chính Đảngta.
Theo tinh thần đó, tôi xin đi thẳng vào mấy khía cạnh sau
đây :
I. Cần đổi mới và làm rõ một số khái niệm được sử dụng
trong báo cáo tổng kết
Trong bản tổng kết còn sử dụng khá nhiều khái
niệm và thuật ngữ như một thói quen từ nhiều thập kỷ trước. Trong
hoàn cảnh mới, với những kinh nghiệm lịch sử mà chúng ta nếm trải, thì cần nhìn
lại những khái niệm đó một cách đầy đủ hơn, sâu sắc hơn. Nhưng trong bản báo
cáo này những khái niệm đó được coi như chuyện đương nhiên, không được phân
tích, phê phán, không làm sáng tỏ thêm nội hàm, mà hầu như giữ nguyên như cũ
cách nhìn, cách định hình đã có trước đây rồi đưa vào hệ thống quan niệm hiện
nay của chúng ta. Có lẽ phải bắt đầu từ việc đổi mới trong tư duy về một
số khái niệm đó. Tôi nghĩ, đây là việc không đơn giản, nhưng nhất thiết
không được bỏ qua, lảng tránh một đòi hỏi có tính bức thiết và có ý nghĩa
khởi đầu công tác lý luận. Vì như chúng ta đã từng xác định, để tiến
tới Đại hội X, đánh dấu một cái mốc quan trọng cho sự bứt phá vươn lên
của đất nước ta, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu so với khu vực và thế giới, chúng ta
phải nhìn lại chặng đường đã qua và định hướng cho chặng đường sắp tới.
Để hoàn thành nhiệm vụ đó, có một loạt khái niệm cần được
xem xét lại, kỹ hơn, sâu hơn, cần phải rà soát lại nội dung của từng khái niệm
đó. Dưới đây là ví dụ cụ thể :
1. Từ bao nhiêu năm nay, lúc nào chúng ta cũng khẳng định
rằng Chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng, là kim chỉ nam
của cách mạng Việt Nam .
Chưa bao giờ chúng ta chủ trương làm trái chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh. Nhưng tại sao chúng ta vẫn mắc nhiều sai lầm ? Nếu có
một kim chỉ nam trên tay, thì khó có thể lạc hướng. Nhưng tại sao vẫn có những
giai đoạn lạc hướng. Điều đó chứng tỏ rằng chúng ta không đọc được những mã số
của nó. Vậy vấn đề bây giờ không còn là nêu lên những khái niệm chung
chung, mà phải xác định rõ nội hàm của những khái niệm đó.
2. Về chủ nghĩa Mác-Lênin, lâu nay không có một đảng
cộng sản hay công nhân nào nói rằng không đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin, không
kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin. Nhưng mỗi đảng đi theo một
con đường khác nhau, đảng này lại còn phê phán đảng kia là làm sai những nguyên
lý của chủ nghĩa Mác-Lênin. Vậy là có nhiều cách hiểu về chủ nghĩa Mác-Lênin.
Cách hiểu nào là đúng? Hai mươi năm trước, đầu thời
đổi mới, chúng ta đã từng nêu ra là cần phải có nhận thức đúng về chủ nghĩa
Mác-Lênin và đã tiến hành nghiên cứu, phân tích xem trong chủ nghĩa Mác-Lênin
điều gì trước đây đúng và đến nay vẫn đúng, điều gì trước đây đúng nhưng nay
không còn phù hợp nữa, điều gì ngay từ trước đã có sai sót, điều gì chưa có cần
bổ sung và phát triển.
Công việc rất quan trọng trên đây chưa hoàn thành và có phần
bị ngừng lại giữa chừng. Nhiều quan niệm cũ lại tiếp tục chi phối.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh rất đa dạng, rất phong phú và sâu
sắc. Xưa nay, chưa bao giờ có ai trong chúng ta nói rằng không theo tư
tưởng Hồ Chí Minh. Nhưng trong thực tế ở rất nhiều nơi và đã rất nhiều lúc
chúng ta vi phạm nghiệm trọng tư tưởng của Bác Hồ: đối với công thương gia, đối
với trí thức, với các thân hào thân sĩ, đối với các công chức lưu dụng, đối với
việc tôn trọng quyền tự nguyện của nông dân, đối với việc phê và tự phê trong
Đảng, đối với chính sách đại đoàn kết dân tộc, đối với sự thẳng thắn phê bình
của Đảng trước nhân dân ....
Đã có nhiều công trình nghiên cứu rất tốn kém về chủ để tư
tưởng Hồ Chí Minh. Nhưng hình như cũng chưa công trình nào nhìn nhận một cách
thẳng thắn xem chúng ta đã từng vận dụng đúng đắn tư tưởng gì của Bác Hồ và đã
vi phạm những gì trong tư tưởng của Người. Nếu không làm rõ việc đó thì khó xác
định được những tư tưởng nào làm chỗ dựa cho chúng ta trong chặng đường đi
tiếp, mà rất có thể sẽ tiếp tục tình trạng lúc nào cũng nói rất hùng hồn là
trung thành, là đi theo, là nắm vững, thậm chí còn tổ chức cả cuộc thi viết báo
cáo viên giỏi về tư tưởng Hồ Chí Minh, nhưng có gì đảm bảo được rằng chúng ta
không tiếp tục phạm sai lầm, làm trái với tư tưởng đó? Đã có công trình nghiên
cứu nào tiến hành nghiên cứu một cách trung thực, khách quan và với phương pháp
khoa học để đánh giá được thực chất những hoạt động và cách tuyên truyền, cổ
động nói trên chưa?
4. Về giai cấp công nhân Việt Nam , chúng ta thường nói như
một công thức rằng Đảng Cộng sản là đội tiền phong của giai cấp công nhân.
Nhưng cho đến nay, khái niệm giai cấp công nhân được xác định như thế nào ?
Giai cấp công nhân hiện nay so với giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ Pháp
thống trị, giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ khác nhau ở chỗ nào ? Trong điều kiện kinh tế tri thức, kinh tế thị trường,
thì giai cấp công nhân có những đặc điểm gì mới, thái độ chính trị thế nào,
lòng căm thù giai cấp, sức chiến đấu giai cấp có khác gì trước ? Ngày nay không
còn có thể tiếp tục nói chung chung về giai cấp công nhân Việt Nam .
Hiểu về một giai cấp không rõ, thì khó thấy, khó biết được đội tiền phong của
giai cấp đó là gì và phải làm gì.
Ngay cả khi nhiệt tình cách mạng là có thật, thì chúng ta
vẫn cần nhớ rằng : Lênin đã từng nhắc đến một kiểu người đang đứng trong đội
ngũ cách mạng song đang làm hại cách mạng bởi : “Nhiệt tình cách mạng cộng
với dốt nát bằng sự phá hoại”. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
của chúng ta, đã có không ít trường hợp sự nghiệp phát triển kinh tế bị “phá
hoại” bởi những loại nhiệt tình như vậy.
5. Bác Hồ đã nói rõ trong Đại hội II, “vì Đảng là đảng
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động cho nên Đảng phải là Đảng của dân
tộc”. Đó là một tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh. Chúng ta có theo tư tưởng
ấy của Hồ Chí Minh không ?
Nếu không làm rõ những khái niệm và tư tưởng trên đây, cứ
lẩn tránh thì chúng ta lại tiếp tục sử dụng những cách xác định mơ hồ, chung
chung, dựa vào một kim chỉ nam mơ hồ, làm sao tránh được những sai lầm như
trước đây chúng ta đã mắc, và rất có thể lại như trước đây, nói một đường, thực
tế làm một nẻo. Thực tế là trong một thời gian khá dài, Đảng dường như
không phải là của giai cấp công nhân hiện nay. Những gì mà chúng ta dạy, chúng
ta nói về bản chất tốt đẹp của giai cấp công nhân mà Đảng là tiêu biểu đã dần
mất đi nhiều. Giai cấp công nhân trong thực tế không biết và không có quyền
được biết đội tiên phong của mình đang làm gì.
6. Về công thức Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ, chúng ta cũng đã từng đưa ra từ rất lâu, ngày nay vẫn được nhắc
lại như cũ. Nếu không làm rõ nội hàm của những mối quan hệ đó thì vẫn
lâm vào tình trạng nói một đường, làm một nẻo. Chúng ta tiếp tục lúng túng và
khó tránh khỏi sẽ lại phạm vào những sai lầm trong việc đảm bảo quyền làm chủ
thực sự của nhân dân, trong khi thường xuyên nói đến cái công thức kể trên như
một cách để nói, chứ không phải nói để làm, nói vậy mà không phải vậy. Thực
chất nội dung của công thức đó chính là đảm bảo được dân chủ trong Đảng, xây
dựng được Nhà nước pháp quyền vững mạnh, phát huy quyền tự do dân chủ của mọi
công dân đã được qui định trong Hiến pháp của Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
7. Trong bản báo cáo, có rất nhiều chỗ đã sử dụng khái niệm “tránh
chệnh hướng”. Đây cũng là một khái niệm thường xuyên được sử dụng, song nội
dung của nó thì lại được vận dụng rất tuỳ tiện, thậm chí
thô thiển và thô bạo khi dựa vào một nội dung có phần mơ hồ, thiếu xác định để
thực thi thói quen độc quyền chân lý, áp đặt tư duy, tuỳ tiện quy kết.
Vấn đề thực ra có thể là rất cụ thể và sòng phẳng: Trên chặng đường trước mắt,
thế nào là hướng và thế nào là chệch?
Kinh nghiệm lịch sử đã cho chúng ta thấy rằng có rất nhiều
trường hợp, một giải pháp từng bị coi là chệch hướng trong một thời gian dài,
nhưng sau này lại thấy là đúng. Nhiều giải pháp coi là đúng hướng, thì lại vấp
phải ách tắc, thất bại. Thí dụ: Khi tiến hành cải tạo tư sản, những người muốn
chủ trương duy trì kinh tế nhiều thành phần đều đã từng bị coi là đi chệch
hướng. Việc xoá bỏ thành phần kinh tế tư nhân lúc đó được coi là đúng hướng.
Khi tiến hành hợp tác hoá, ai muốn duy trì thích đáng kinh tế nông dân cá thể
cũng bị coi là chệch hướng. Làm ăn tập thể, đưa các hợp tác xã lên cấp cao (một
cách gò ép), đi vào kế hoạch Nhà nước tập trung, thu mua theo giá Nhà nước và theo
chỉ tiêu của Nhà nước đã từng được coi là con đường duy nhất đúng hướng. Sau
một thời gian dài, phải trả giá rất nhiều, sự đúng hướng đó đi vào ngõ cụt đến
mức không có khả năng đi tiếp theo cái “đúng hướng” đó nữa, thì mới tỉnh ngộ ra
và mới thừa nhận rằng những điều tưởng là đúng hướng lại là chệch, và cái tưởng
là chệch lại là đúng, mà hiện nay chúng ta đang đi theo. Vậy thì trong số những
cái đang được gọi là đúng hướng và chệch hướng mà chúng ta dự kiến trước mắt,
có những căn cứ khoa học nào để xác định, hay vẫn chỉ là những vũ đoán duy ý
chí và tuỳ tiện. Tất cả những vấn đề đó cần phải nghiên cứu rất kỹ, không thể
khẳng định chung chung, nếu không chúng ta rất dễ gặp lại những ách tắc, trì
trệ, đồng thời rất dễ làm thui chột đi những sáng kiến, những khai phá để mở ra
con đường phát triển.
8. Về khái niệm diễn biến hoà bình cũng vậy.
Cho đến nay, tình hình thế giới thay đổi rất nhiều. Những nước phương Tây
điều chỉnh chủ trương, chính sách và biện pháp của nó hàng tháng, hàng năm.
Không nên dùng một khái niệm chung chung, trừu tượng như thế để lượng định
những nguy cơ từ phía các nước phương Tây.
Theo tôi hiểu và qua trao đổi với những người bạn quốc tế,
đặc biệt là một vài người bạn có lúc ở cùng cảnh ngộ với ta trong khối ASEAN đã
hoặc đang ở trên những cương vị lãnh đạo cho phép họ nhìn nhận vấn đề một cách
tỉnh táo và khách quan xuất phát từ bài học kinh nghiệm của chính họ và dân tộc
họ đã trải qua, trao đổi với nhiều anh chị em trí thức trong nước và ở nước
ngoài có hiểu biết và nhất là có sự tha thiết muốn góp phần vào sự phát triển
đất nước, người ta nói với tôi rằng: hiện nay, trong các chiến lược của các
nước phương Tây không còn mấy ai dùng đến khái niệm diễn biến hoà
bình đối với các nước xã hội chủ nghĩa.
Bối cảnh của tình hình mới mà chúng ta đang phải đương đầu
là cực kỳ phức tạp. Những thế lực thù địch trăm phương nghìn kế phá hoại sự
nghiệp của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, trong đó, có những thủ
đoạn cực kỳ thâm hiểm và tinh vi. Đề cao cảnh giác và luôn luôn nâng cao tinh thần
cảnh giác trong cán bộ, đảng viên và nhân dân ta là nhiệm vụ thường trực của
chúng ta. Song nội dung của tinh thần cảnh giác đó cũng không thể cực đoan, một
chiều theo cách phân tích địch ta quá đơn giản và thiếu nhạy bén chính trị, mà
phải luôn luôn có cái nhìn toàn cuộc, nhìn rõ thế và lực của ta hiện nay, cũng
như hiểu cho sâu mối tương tác giữa các thế lực ở khu vực và trên thế giới.
Khái niệm “diễn biến hoà bình” mà ta đang thường xuyên sử dụng chưa thể hiện đủ
tinh thần cảnh giác đó, ngược lại, có thể làm biến dạng ý thức cảnh giác, gây
nên những phản cảm làm trở ngại cho chính việc nâng cao tinh thần cảnh giác.
Tôi nghĩ, chúng ta phải thật tỉnh táo nhìn nhận lại vấn đề này, nhất là khi
chúng ta đã dõng dạc tuyên bố với thế giới: Việt Nam sẵn sàng làm bạn với tất cả các
nước trên thế giới, muốn là đối tác đáng tin cậy của tất cả mọi người.
Đây sẽ là một vấn đề rất gay cấn trong tranh luận, song
không thể lảng tránh việc đặt lên bàn nghị sự để bàn luận cho ráo riết, ra bắp
ra khoai.
9. Về thái độ và quan hệ giữa các thành phần kinh tế, chúng
ta vẫn tiếp tục nói như một thói quen : Một mặt nói rằng xoá mọi sự phân
biệt giữa các thành phần kinh tế, đồng thời luôn luôn qui định kinh tế nhà nước
phải là chủ đạo. Nếu đã qui định trước cái gì là chủ đạo, thì sao có thể nói
được rằng mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng ? Kinh tế nhà nước hiện
nay rất yếu kém, nhiều khuyết tật. Một nền kinh tế nhiều thành phần, mà thành
phần nhiều khuyết tật nhất, kém hiệu quả nhất lại là chủ đạo. Vậy thì nền kinh
tế đó sẽ phát triển như thế nào và đi vào cuộc đua với thế giới này như thế nào
? Những vấn đề đó chúng ta chưa phân tích đến nơi đến chốn, chỉ nhắc lại công
thức như một thói quen để làm hài lòng những tư duy đường mòn bảo thủ, vừa muốn
giữ lại cái cũ làm chỗ dựa, vừa bất lực trong việc giúp cho nền kinh tế được
phát triển tối ưu.
10. Khi nói về những tệ nạn trong xã hội và vấn đề
phẩm chất của Đảng viên, báo cáo vẫn chỉ nhắc lại những căn bệnh cố hữu là tham
nhũng, quan liêu, phẩm chất sa sút. Đó quả là một nguy cơ lớn. Nhiều Đảng đã
tan rã vì căn bệnh này. Nhưng đến lúc này thì sẽ là hoàn toàn không đủ
nếu chỉ nhắc lại chung chung rằng đang có những căn bệnh đó. Phải chỉ ra
những nguyên nhân sâu xa của căn bệnh, trên cơ sở đó phải chỉ ra những biện
pháp để sửa chữa, đây là điều quan trọng hơn. Bây giờ không còn là chuyện
chẩn bệnh, mà phải mổ xẻ để tìm ra nguyên nhân và cách chữa.
Nói về sa sút phẩm chất đảng viên, cần chỉ ra sự khác biệt
hết sức cơ bản về vị trí và hình thức hoạt động khi Đảng là Đảng cầm quyền
trong xây dựng đất nước ở thời bình so với thời kỳ hoạt động bí mật và hoạt
động công khai trong thời chiến. Khi nắm quyền lực trong tay, khi ngồi
trên ghế quyền lực (Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị), nếu không có ý thức
tu dưỡng rèn luyện phẩm chất của người cộng sản, nhất là Đảng không có cơ chế
phù hợp để kiểm tra, kiểm soát phẩm chất đảng viên, thì sự tha hoá trong không
ít đảng viên có chức, có quyền là điều không thể tránh khỏi. Cơ chế phù
hợp đó chỉ có thể được xây dựng và thực thi trên căn bản nguyên tắc của Đảng
được qui định rõ trong điều lệ của Đảng phải được nghiêm chỉnh chấp hành. Đáng
tiếc là, trong một thời gian dài, một số nguyên tắc cơ bản đó đã bị vi
phạm ngày càng trầm trọng. Rõ nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây
dựng Đảng, trong sinh hoạt Đảng, trong triển khai mọi hoạt động công tác của
Đảng. Chỉ xin nêu một ví dụ dễ thấy nhất về sự vi phạm nguyên tắc tập
trung dân chủ của Đảng: đó là cách tổ chức và triển khai Đại hội Đảng các cấp
tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng.
Cách tổ chức và triển khai ấy, trên thực tế đã làm giảm sút,
rồi đi đến vi phạm một nội dung mấu chốt và cực kỳ quan trọng của Điều lệ Đảng,
chi phối toàn bộ công tác tổ chức, sinh hoạt Đảng và các hoạt động lãnh đạo của
Đảng trên mọi lĩnh vực: “Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại
biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội
đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành
Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp uỷ)”.
Qui hoạch để đào tạo, bồi dưỡng, bố trí và đề bạt cán bộ là
công việc cần thiết, phải tiến hành thường xuyên và đương nhiên phải thể hiện
trong quá trình chuẩn bị và tiến hành đại hội các cấp cho đến Đại hội toàn quốc
của Đảng. Trong quá trình quy hoạch và bố trí cán bộ thì việc sắp xếp nhân sự
cho bộ máy của Đảng ở các cấp phải có cơ cấu hợp lý cũng là chuyện tất yếu.
Song “cơ cấu” không đồng nghĩa với việc tuỳ tiện vi phạm Điều lệ Đảng
khiến cho trên thực tế gần như đại hội chỉ còn là thủ tục, khiến cho sức mạnh
của Đảng bị giảm sút vì sự chọn lọc, tuyển lựa cán bộ để đưa vào các cấp uỷ
không công khai, minh bạch, trong quá trình dân chủ thảo luận của đại hội các
cấp. Vì thiếu dân chủ cho nên sự tập trung đã trở thành tập trung quan liêu, dẫn
tới sự chuyên quyền, độc đoán của một số tập thể nhỏ.
Đây chính là nguy cơ dẫn tới sự suy yếu của tổ chức Đảng và
sự sa sút phẩm chất đảng viên. Hệ quả của nó lá sự bị động tuỳ thuộc của cấp
dưới tuân theo mọi quyết đoán từ bên trên, tạo ra tâm lý lựa gió xoay chiều cốt
cho được việc theo ý của trên. Sự dối trá cũng khởi nguồn từ đây. Căn bệnh hình
thức phô trương, bệnh thành tích phát triển từ đây. Sự tha hoá, biến chất của
không ít cán bộ, đảng viên dẫn tới sự suy yếu của tổ chức Đảng, đánh mất lòng
tin của quần chúng đối với Đảng.
Thực trạng này đang diễn ra nghiêm trọng, không thể không
nghiêm khắc vạch ra để tìm cách khắc phục. Mà giải pháp cơ bản nhất là trở lại
với nguyên tắc của Đảng, kiên quyết thực hành dân chủ trong sinh hoạt Đảng, từ
mở rộng dân chủ mà thực hiện sự tập trung. Có dân chủ thì mới có tập
trung, và tập trung trên nền tảng dân chủ sẽ không là tập trung quan liêu dẫn
đến chuyên quyền vượt mọi quyền hạn và quy định của Điều lệ Đảng và pháp luật
của Nhà nước.
Trở lại với nguyên tắc Đảng cũng có nghĩa là thực hiện “Tư
tường Hồ Chí Minh” về xây dựng Đảng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng,
bồi dưỡng ý chí cách mạng và phẩm chất cộng sản cho từng đảng viên, từ cơ sở
cho đến Trung ương. Đây chính là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp
của Đảng ta hiện nay. Làm thế nào trong nội dung tổng kết về lý luận phải dành
phần thích đáng cho công tác xây dựng Đảng. Thực ra thì cũng đã có nghị quyết
về vấn đề này. “Xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”, là điều thường
xuyên được nêu lên trong các diễn văn, các báo cáo, trên các phương tiện truyền
thông, cấn có sự tổng kết nghiêm túc.
II. Mấy vấn đề về phương pháp tư tưởng
Tất cả những vấn đề kể trên, suy cho cùng, là những biểu
hiện cụ thể của phương pháp tư tưởng. Nghĩ cho kỹ, thì phương pháp
tư tưởng của Đảng đã và đang quyết định đường lối, chủ trương,
chính sách và biện pháp đúng hay sai. Nhìn lại toàn bộ lịch sử đấu tranh của
Đảng ta, bằng những trải nghiệm của bản thân mình trong 65 năm chiến đấu dưới
ngọn cờ của Đảng, có dịp tĩnh tâm suy nghĩ và tự tìm tòi, phân tích, tôi hiểu
được rằng, suy cho cùng, những thành tựu cũng như những thất bại mà Đảng gặp
phải, dường như phụ thuộc vào hai loại phương pháp tư duy khác nhau.
Trong nhiều giai đoạn lịch sử của cách mạng Việt
Nam, phương pháp tư duy “tả khuynh”, chủ quan, duy ý chí đã từng giữ vai trò
chủ đạo. Chỉ khi nào phương pháp tư duy đó vấp phải những khó khăn, thất bại
thì nó mới tạm thời rút lui, để luồng tư duy khách quan, giàu trí tuệ đóng vai
trò chỉ đạo, sửa chữa sai lầm và khắc phục hậu quả. Đó chính là những giai đoạn
chúng ta đạt được những thành công rực rỡ trong đấu tranh cách mạng cũng như
trong phát triển kinh tế.
Thử điểm lại các giai đoạn lịch sử, thấy rất rõ diễn biến
đó.
* Thời kỳ mới thành lập Đảng, xu hướng “tả
khuynh” đã là một động cơ của Xô Viết Nghệ Tĩnh và dẫn tới thất bại, lực lượng
Đảng bị tổn thất nghiêm trọng. Từ sau đó, Nguyễn Ái Quốc định hướng cho Đảng,
đến khi có thắng lợi của Mặt trận Dân chủ Đông Dương để phục hồi sức mạnh của
Đảng. Từ đó, Đảng lại phát triển.
* Đến Nam Kỳ khởi nghĩa, lại một xu hướng
manh động, “tả khuynh” đã dẫn tới thất bại nghiêm trọng và lực lượng của Đảng
bị tổn thất rất nặng nề.
* Bác Hồ về Pác Bó, cũng vừa là lúc có chủ
trương khởi nghĩa non, Bác đã kịp thời ngăn chặn lại. Bác điều chỉnh lại đường
lối, chủ trương, xây dựng mặt trận Việt Minh, sử dụng mọi lực lượng để phát
triển phong trào cách mạng, mở các lớp học, phát triển phong trào tới mọi tầng
lớp nhân dân, xây dựng vùng giải phóng, không manh động, không nhấn mạnh nội
dung giai cấp. Từ đó phong trào cách mạng phát triển rất mạnh và dẫn tới Cách
mạng tháng Tám thành công.
* Trong kháng chiến chống Pháp, với chủ
trương đại đoàn kết do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xướng, Đảng ta đã huy động được
sức mạnh toàn dân, không những kháng chiến thắng lợi mà kiến quốc cũng thành
công. Cứ nhìn vào thành phần Chính phủ kháng chiến do Bác Hồ đứng đầu cũng thấy
rõ được tầm nhìn xa trông rộng của người lãnh tụ nhân dân. Có thể nói, mãi về
sau nay, tuy sự nghiệp cách mạng ngày càng tiến triển thuận lợi, nhưng chưa bao
giờ sự tập hợp và phát huy lực lượng nhân sĩ, trí thức lại được rỗng rãi và
giàu sức thuyết phục như cách Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm. Kế tục được bài học
của Bác Hồ, trong cuộc kháng chiến ở Nam Bộ, Xứ uỷ Nam Bộ và sau đó là Trung
ương cục do đồng chí Lê Duẩn đứng đầu đã biết cách tập hợp lực lượng, phát huy
được vai trò của các tầng lớp nhân sĩ trí thức ngoài Đảng đi kháng chiến cùng
các tầng lớp nhân dân khác, gây được tiếng vang, góp phần to lớn vào sự nghiệp
kháng chiến. Thế nhưng, bài học lớn đó rồi không được tiếp tục mở rộng ra trong
quá trình phát triển của các giai đoạn sau.
* Từ 1951 trở đi, xu hướng “tả khuynh” lại
có chiều phát triển mạnh do sự tác động của các chuyên gia Trung Quốc. Kết quả
là chỉnh đốn tổ chức và cải cách ruộng đất đã làm cho sự nghiệp cách mạng của
Đảng và của nhân dân ta gánh chịu những tổn thất vô cùng nặng nề. Chính từ bài
học cay đắng đó, cùng với việc xử lý kỷ luật một số cán bộ cao cấp của Đảng, xu
hướng “tả khuynh” lại tạm thời lắng xuống. Hội nghị lần thứ 11 của Trung ương
khoá II tháng 12 năm 1956 của Đảng đã phê phán thẳng thắn xu hướng “tả khuynh”
này.
* Từ đó, kinh tế dần dần phục hồi, nội bộ
Đảng được củng cố, những vết thương của sai lầm dần dần được hàn gắn. Chính đây
là thời kỳ kinh tế miền Bắc phát triển tốt nhất. Nhưng sau đó không bao lâu, xu
hướng “tả khuynh” trỗi dậy đẩy tới những cuộc cải tạo ồ ạt đối với công thương
nghiệp và nông nghiệp. Kết quả thế nào thì chúng ta đều biết. Khắc phụ cho được
hậu quả của đường lối “tả khuynh”, giáo điều đó khó khăn như thế nào thì cũng
đã là bài học cho tất cả chúng ta.
* Sau khi giải phóng miền Nam , đã từng có nhiều bộ óc suy
nghĩ về việc duy trì một nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế mở, hợp tác quốc
tế, sử dụng thị trường. Nhưng sau đó không lâu, với Đại hội IV, xu hướng “tả
khuynh”, chủ quan duy ý chí lại thắng thế để đưa ra những quyết định về đường
lối và chủ trương sai. Cải tạo công thương nghiệp ồ ạt, cải tạo nông nghiệp vội
vã, cải tạo sỹ quan của chính quyền cũ kéo dài quá lâu, đưa dân đi kinh tế mới
bằng biện pháp cưỡng bức .... Đó là những nguyên nhân chính dẫn tới khủng hoảng
và ách tắc, gây những thiệt hại rất lớn cho kinh tế kể từ 1977 trở đi. Thật là
đau đớn khi nghĩ lại, sự nghiệp giải phóng dân tộc được hoàn thành trọn vẹn,
thành phố Sài Gòn và nhiều thành phố khác ở miền Nam vẫn còn nguyên kết cấu hạ
tầng và tiềm năng về kinh tế hàng hoá, thế nhưng hàng vạn người phải bỏ nước ra
đi. Hiện tượng “di tản”, “thuyền nhân” cần được nhìn nhận như là những vết
thương trên cơ thể đất nước, để lại những di chứng trong tâm hồn của không ít
đồng bào ta.
* Khi nền kinh tế và đời sống của nhân dân
đã đi đến cùng cực thì những quan điểm giáo điều, “tả khuynh” mới bộc lộ rõ
tính bất lực của nó. Đến lúc đó thì những tư duy khách quan, trí tuệ, tỉnh táo
hơn đã cứu vớt từng mảng của nền kinh tế. Đó chính là những cuộc phá rào ở các
cơ sở và phá rào trong cả đường lối, chính sách ở trung ương.
* Nhưng từ 1983, sau khi chỉ mới “hé” cửa,
bung ra được một chút, xu hướng giáo điều “tả khuynh” lại muốn gò lại nền kinh
tế, với nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 của Trung ương khoá V, lập lại kỷ cương
trong phân phối lưu thông, hàng loạt MEX đã bị dẹp bỏ, tình trạng ngăn sông cấm
chợ lại xuất hiện, cơ chế kế hoạch hoá quan liêu bao cấp lại có xu hướng phục
hồi.
* Đến Đại hội VI, những khuyết tật của xu
hướng bảo thủ duy ý chí đã được phê phán một cách gay gắt không kém gì Hội nghị
lần thứ 11 của Trung ương năm 1956. Và nhờ đó, kinh tế lần lượt đạt được những
bước tháo gỡ rất căn bản. Phải nói rằng, Đại hội VI của Đảng đánh dấu một bước
phát triển đột phá trong tư duy lý luận của Đảng, mở đầu bằng đổi mới tư duy
kinh tế. Nhờ bước đột phá về tư duy lý luận do dám nhìn thẳng vào sự thật, mạnh
dạn nói lên sự thật, dũng cảm phân tích phê phán những sai lầm, nhất là bệnh
giáo điều “tả khuynh”, đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội trầm
trọng và kéo dài.
* Nhưng từ sau 1989, sau khi thu được những
thắng lợi rất lớn về kinh tế, từ sự sụp đổ của Đông Âu và sau đó là sự sụp đổ
của Liên Xô thì xu hướng giáo điều “tả khuynh” lại phục hồi. Thay vì từ sự sụp
đổ của Đông Âu và Liên Xô mà rút ra bài học cho bản thân mình, nhằm đưa tới
quyết tâm đẩy mạnh sự nghiệp Đổi Mới mạnh mẽ hơn, toàn diện hơn, triệt để hơn
nhằm khắc phục những khuyết tật của mô hình kế hoạch hoá tập trung quan liêu và
bao cấp dẫn đến sự suy kiệt của nền kinh tế vốn chứa đựng những tiềm năng có
thể phục hồi và vươn lên sau 1975, mở rộng dân chủ để tạo ra sự đồng thuận xã
hội mới làm động lực cho sự phát triển, lại tự thoả mãn với chính mình trong
những luận điểm có phần tự mãn chủ quan là Đảng ta vững vàng về lập trường quan
điểm nên mới giữ được thành tựu như đã có (không như Đông Âu và Liên Xô). Dưới
cái vỏ bọc của lập trường, quan điểm đó, khuynh hướng “tả” đã dẫn đến sự co
lại, kìm hãm tiến trình Đổi Mới mà Đại Hội VI đã khởi động. Hiện tượng chững
lại đó trong một số lĩnh vực do được dẫn dắt bởi quan điểm nói trên đã khiến
cho chúng ta không tận dụng được đúng mức những thời cơ để bứt lên, cải thiện
tình hình kinh tế, thúc đẩy các hoạt động khác của đất nước. Đã xuất hiện quan
điểm lo ngại Việt Nam
tham gia vào ASEAN, bảo lưu ý kiến không tham gia năm 1995. Không ít những
người tự coi là lập trường, quan điểm vững gây không ít cản trở cho sự phát
triển bằng những lời phát biểu như: “coi chừng chệch hướng”, “đổi mới nhưng
không đổi màu”, “hoà nhập mà không hoà tan” .... Hậu quả vô hình, không đo
lường được đó còn kéo dài, chỉ phối cho đến nay khiến cho lợi thế cạnh tranh bị
sút giảm, nhịp độ tăng trưởng chưa đáp ứng được đòi hỏi của sự phát triển của
đất nước; khoảng cách tụt hậu ngay trong khu vực ASEAN rộng thêm.
Dũng cảm nhìn thẳng vào sự
thật, phải chỉ ra được nguyên nhân và tác hại của phương pháp tư tưởng “tả
khuynh”, giáo điều nói trên, tìm cách khắc phục nó, đó phải là công việc không
thể lẩn tránh của công tác tổng kết và lý luận. Gợi lên những vấn đề nói trên,
tôi muốn chúng ta cố gắng nhìn lại cả quãng đường Đảng ta đã đi qua, tìm ra
nguyên nhân thực chất của những sai lầm đó.
Lưu ý đến đặc điểm này để khắc phục và tỉnh
táo trước những nguy cơ vấp lại những sai lầm như đã từng vấp. Những vấp
váp, trì trệ và sự chững lại trong tiến trình Đổi Mới, nguyên nhân của nguyên
nhân có phải chính là xu hướng giáo điều “tả khuynh” vẫn còn tồn tại, muốn co
kéo, kiềm chế những tiềm lực phát triển, nhưng lại mang danh nghĩa bảo vệ Đảng,
bảo vệ Chủ nghĩa xã hội, chống chệnh hướng.
Công cuộc đổi mới 20 năm qua về thực chất
không gì khác chính là sự khắc phục xu hướng này. Khi nào chúng ta nhận thức ra
được hệ luỵ của tư tưởng “tả khuynh” và phê phán xu hướng đó thì cả kinh tế lẫn
chính trị đều có bước khởi sắc. Khi nào xu hướng này trở lại thế lấn lướt thì
sự lệch lạc và trì trệ lại bắt đầu. Về thực chất đó cũng chính là một sự chệch
hướng, mà tác hại của nó không kém những chệch hướng khác. Đó là bài học kinh
nghiệm lịch sử cần được mạnh dạn đặt ra và phân tích thật cặn kẽ và sâu sắc, đó
chính là yêu cầu không thể lẩn tránh của công tác tổng kết.
III. Quan hệ giữa quyền lực và dân chủ,giữa lợi ích chung và
quyền uy riêng
Để khắc phục nguy cơ kể trên, vấn đề có ý
nghĩa quyết định là ý chí cách mạng và lập trường kiên định của người cộng sản,
đặc biệt là của đội ngũ lãnh đạo.
Ở trên đã nói tới nguy cơ của xu hướng bảo
thủ, “tả khuynh”, trì trệ. Hiện nay xu hướng bảo thủ trì trệ xét về số lượng
thì không nhiều và tự nó khó có thể là một nguy cơ. Đối trọng với xu hướng đó,
những bộ óc có xu hướng đổi mới đúng đắn, muốn bứt phá khỏi những gánh nặng cũ,
là một lực lượng không nhỏ. Tôi không tin rằng Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ban
chấp hành Trung ương của ta hiện nay không đủ sáng suốt để nhận thức được những
gì cần phải làm trong thời gian trước mắt, những gì đang là trở ngại cần phải
được khắc phục trên con đường tiến tới. Nhưng vấn đề ở đây không phải chỉ là
chuyện của nhận thức, mà là những quan hệ giữa quyền lực và quyền uy.
Quyền lực khác với quyền uy. Về
nguyên tắc thì những đồng chí chính thức được Đảng và nhân dân giao phó trọng
trách điều hành và quyết định những vấn đề lớn thuộc về vận mệnh quốc gia là
những người được trao quyền lực và đang nắm quyền lực. Nhưng quyền uy thì không
nhất thiết là thuộc người đang nắm giữ cương vị điều hành. Hiện nay không còn
tình trạng nể nang, né tránh của quyền lực trước quyền uy, quyền uy tác động
không nhỏ đến quyền lực.
Đó chính
là nguy cơ. Đọc các văn bản, thấy toát lên một điều là những người viết có ý
bứt phá nhưng vẫn bị ám ảnh rất mạnh bởi quyền uy, do đó phải cố gắng làm vừa
lòng tất cả mọi người. Vì thế nhiều ý tưởng nêu ra còn mang nặng tính thoả
hiệp, nửa vời. Như vậy giải pháp tháo gỡ không chỉ là chuyện nhận thức, mà là
bản lĩnh và tính kiên định của những người đang được Đảng và nhân dân giao
trách nhiệm quyết định những vấn đề chiến lược của đất nước.
Có một
nghịch lý tai hại thường diễn ra: nếu bị quy là tả thì cùng lắm cũng chỉ bị phê
bình, thậm chí không hề bị phê bình, chỉ cần lẳng lặng sữa chữa là xong. Rất
nhiều đồng chí trong Đảng ta đã mắc những sai lầm “tả khuynh” nghiêm trọng,
nhưng không bị kỷ luật, vẫn giữ được quyền uy bởi được đánh giá “kiên định lập
trường cách mạng”. Ngược lại, những việc gì mạnh dạn đổi mới, không
bằng lòng với cải cách đã đạt được, thì lại rất dễ bị chụp mũ là mất lập
trường, chệch hướng, xa rời chủ nghĩa xã hội, ăn phải bả của tư bản. Ai bị quy
kết như vậy thường khó chống đỡ hơn, thậm chí ảnh hưởng đến cả sinh mệnh chính
trị. Do đó, xu hướng chung của đại đa số hiện nay là : một mặt thì tuy đã nhận
thức được con đường phải đi, mặt khác lại lo ngại những quy kết chệch hướng. Đó
là lý do làm cho khuynh hướng bảo thủ tuy không nhiều, nhưng sức hù doạ còn có
ảnh hưởng. Bộ phận đổi mới, cải cách tuy chiếm một tỷ trọng lớn và ngày càng
đông hơn, nhưng không đủ sức thu hút được đại đa số trước những sự hù doạ chệch
hướng, mất Đảng, mất Chủ nghĩa xã hội.
Bởi vậy,
theo tôi điều quyết định là phải có một cơ chế đảm bảo cho Bộ Chính trị, Ban Bí
thư và Trung ương có tính chất độc lập cao hơn nữa trong việc lựa chọn, phân
tích và quyết định các vấn đề. Sự tham khảo các ý kiến của các đồng chí
lão thành cách mạng còn đủ minh mẫn, sáng suốt, các chuyên gia có trí tuệ,
trung thực là rất cần thiết. Kể cả những ý kiến mà các đồng chí đang ở cương vị
lãnh đạo không đồng ý cũng đều là những gợi ý góp phần để cân nhắc cho có căn
cứ hơn. Nhưng tuyệt đối không vì sự nể nang, không để cho bất cứ một quyền uy
nào ngăn chặn sự lựa chọn của các đồng chí. Đó chính là nguyên tắc tổ chức của
Đảng. Chúng ta sẽ lựa chọn như thế nào đây, giữa một bên là lợi ích của quốc
gia, lợi ích của dân tộc, lợi ích của Đảng và một bên là nể nang và thoả mãn
những ý kiến riêng của một thiểu số, mà ở đó lợi ích rất có thể chỉ là lợi ích
của quyền uy, sự lo sợ chỉ là sự lo sợ mất quyền uy, ẩn náu sau những sự hù doạ
mất Đảng, mất Chủ nghĩa xã hội.
Trong sự
lựa chọn này, sự can đảm, sự dũng cảm, thẳng thắn và kiên định là rất cần
thiết. Trong chiến tranh chống ngoại xâm, nhờ những đức tính đó mà chúng ta
chiến thắng và giành được độc lập. Trong sự nghiệp phát triển của đất nước hiện
nay, những đức tính đó vẫn là một trong những yếu tố quyết định nhất cho những
thắng lợi mai sau.
Trên đây
là một số ý kiến tôi mạnh dạn và thẳng thắn nêu lên để cùng nhau suy nghĩ, trao
đổi thảo luận để làm sáng tỏ chân lý. Cùng nhau chân thành bàn bạc với ý thức
trách nhiệm của người cộng sản, mở rộng dân chủ trong tranh luận để nhận thức
đúng sai, đó là thái độ cần có để làm cho công tác tổng kết đạt được kết quả
mong muốn.
Sau đây, tôi trình bày những ý
kiến đóng góp cụ thể vào nội dung kinh tế của bảng tổng kết.
1. Một số nhận xét chung
Nhìn chung bản tổng kết này
đã cung cấp được khá đầy đủ các số liệu về diễn biến kinh tế trong 10 năm qua ở
Việt Nam. Trong đó có nêu bật được nhiều thành tích trong việc phát triển kinh
tế, thoát khỏi khủng hoảng, cải thiện cán cân thanh toán, tăng trưởng, đẩy mạnh
xuất khẩu, thay đổi cơ cấu kinh tế, đạt được tiến bộ được thế giới công nhận về
xoá đói giảm nghèo ...
Có một số điểm dưới đây cần
lưu ý phân tích rõ thêm:
1. Trong việc phân tích
những nguyên nhân của tăng trưởng 20 năm qua, bản tổng kết này chỉ nêu lên khá
chung 3 yếu tố quan trọng nhất là: Đảng lãnh đạo, phong trào quần chúng và đẩy
mạnh đầu tư của nước ngoài cũng như đầu tư trong nước. Nếu chỉ nói ở mức như
thế thì chưa thấy hết được những nhân tố đặc thù của giai đoạn này:
* Phải đánh giá thích
đáng những sự cố gắng của các cơ sở, các địa phương, sáng tạo ra những hình
thức để đột phá khỏi mô hình kinh tế cũ. Ngay từ trước 1986, nhiều địa
phương đã dũng cảm, năng động, sáng tạo tìm những lối thoát để khắc phục những
khó khăn của mô hình kinh tế cũ. Những công cuộc phá rào của Công ty lương thực
Thành phố Hồ Chí Minh, của Long An, của An Giang, cơ chế khoán của Đồ Sơn,
những đột phá của các xí nghiệp như Dệt Thành Công, đánh cá Côn Đảo, Vũng Tàu,
lụa Nam Định .... , là những sự sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách
nhiệm. Không có những sáng tạo đó, khó có thể dẫn đến đổi mới từ 1986. Bản tổng
kết này cần phải ghi nhận công lao của những người tìm đường và mở đường cho
công cuộc đổi mới mà Đảng đã tổng kết và nêu lên trong Nghị quyết của Đại hội
VI.
* Phải tính đến một yếu tố
rất quan trọng là có nhiều giá trị bị ngưng đọng trong mô hình kinh tế
cũ, khi bước sang thời kỳ đổi mới đã lấy lại giá trị, do đó góp một phần đáng
kể vào việc tăng trưởng và nâng cao đời sống của dân cư. Thí dụ rõ rệt
là vấn đề nhà đất. Nhà đất trong mô hình kinh tế cũ bị hạ thấp giá trị một cách
giả tạo. Bước vào cơ chế thị trường, giá trị của nhà đất tăng lên hàng chục,
hàng trăm lần. Đó là một trong những nhân tố tạo ra tăng trưởng, tạo ra thu
nhập của một số rất đông dân cư. Từ đó người ta có thể xây nhà, mua sắm, nâng
cao mức tiêu dùng ....
2. Một số bài học
kinh nghiệm lớn của những năm qua chưa được trình bày và phân tích đầy đủ, nhất
là giai đoạn trước đổi mới, giai đoạn 10 năm 1975 – 1986. Do đó chỉ
thấy toàn thành tích và thắng lợi, mà không chú ý đến những nguy cơ vẫn còn đe
dọa sự phát triển. Kinh nghiệm của giai đoạn trước đổi mới cho chúng ta một bài
học lớn là: có rất nhiều những cái mới, cách làm khác với nếp cũ, sáng tạo, đột
phá... , thường đã từng bị ngộ nhận là chệch hướng, là nguy hiểm.... Cách sử xự
như thế với những cái mới đã từng có tác dụng kiềm chế sự phát triển, kéo dài
thêm khủng hoảng. Từ kinh nghiệm đó cần rút ra bài học trong chính sách kinh tế
hiện nay và mai sau là cần phải trân trọng những cái mới, phải khuyến khích
những tìm tòi, những hướng đi mới, không nên khư khư giữ nếp cũ hoặc thoả mãn
với những gì làm được. Nếu chỉ sợ chệch hướng theo một đánh giá nào đó thì thực
tế cầm chắc sẽ là tụt hậu. Vào thời kỳ trước 1986, tất cả những mũi đột
phá sáng tạo đều đã từng bị những quan điểm bảo thủ quy kết là chệch hướng, mất
Chủ nghĩa xã hội, mất Đảng ... Hay thử tưởng tượng xem, nếu trong những năm
gian nan ấy, mà những quy kết đó không kiên trì khắc phục, thì mọi mũi đột phá
đều bị ngăn cản. Như vậy, Việt Nam có vượt qua được khủng hoảng và bước vào
thời đổi mới toàn diện không ? Từ kinh nghiệm đó, chúng
ta phải thẩm tra xem ngày nay đang có những gì cần phải tiếp tục tìm tòi, phải
biết tìm mọi cách phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, tạo động lực mới để bứt
phá, tìm ra những hướng sáng tạo mới trong các bước đi để bắt kịp được nhịp
phát triển của thời đại. Cần phải rạch ròi và sòng phẳng chỉ ra những hướng đi
đang còn bị ngộ nhận và quy kết đơn giản là chệch hướng, liệu có đúng là chệch
hướng không .... Điều này trong bản báo cáo còn quá mờ nhạt. Chẳng lẽ, phải
đuổi kịp với thiên hạ là chệch hướng, để đất nước tụt hậu ngày càng xa là đúng
hướng.
3. Tổng kết 20 năm qua và
dự kiến cho 5 năm sắp tới mà chưa đề cập đến nơi đến chốn về một sự thách đố
rất lớn là: làm sao kinh tế Việt Nam vươn ra thị trường khu vực và thị trường
thế giới, là xác định vị trí của Việt Nam so với các nước trong khu vực. Chúng
ta sẽ bị thua thiệt hoặc sẽ tụt hậu nếu trong sự hội nhập sắp tới, Việt Nam chỉ
để cho người ta vươn vào mà không tính đến chuyện vươn ra một cách tích cực. Đó
là vấn đề cần phải xem xét kỹ hơn.
Dưới đây xin nêu một số
điều cần lưu ý trong tổng kết về đổi mới kinh tế:
2.
Những vấn đề và những thách đố
Những thành tựu to lớn kể
trong bản tổng kết kể trên là một cái vốn rất cơ bản cho các bước đi sắp tới.
Tuy nhiên hoàn toàn không thể thoả mãn với những thành tựu đó. Rất nhiều ưu thế
và thành tựu của nền kinh tế từ thời kỳ sau đổi mới chưa có được những cơ sở
vững vàng. Chúng ta chưa thể thoả mãn với mức tăng trưởng 7 - 8 %/năm, với
những chỉ tiêu xuất khẩu khá cao, số lượng đầu tư khá lớn ....
Từ những thành tựu kể trên,
rất cần phải phân tích sâu hơn vào thực chất, nhìn thẳng vào sự thật, xác lập
một tầm nhìn xa hơn, rộng hơn về những vận hội cũng như những thách thức, những
nguy cơ, cạm bẫy đang và sẽ đặt ra cho những năm sắp tới. Có thể kể đến mấy vấn
đề sau đây :
1. Sự phát triển kinh
tế của chúng ta vẫn tiếp tục lệ thuộc một chiều và quá mức vào thế giới bên
ngoài. Trước cách mạng, kinh tế Việt Nam lệ thuộc vào chính sách của
thực dân Pháp. Sau cách mạng, trong kháng chiến và cả sau khi giải phóng miền
Nam, nền kinh tế của chúng ta lại lệ thuộc vào viện trợ của các nước xã hội chủ
nghĩa. Bây giờ ta đã chuyển từng bước sang xây dựng một nền kinh tế tự chủ.
Người Việt Nam đã thực hiện được nguyên lý “sống bằng cái mình làm ra”. Tuy
nhiên, hiện nay, để chúng ta sống được (sống hiểu theo nghĩa rộng), chúng ta
vẫn lệ thuộc một chiều và quá mức về nhiều mặt vào thế giới bên ngoài: lệ thuộc
về vốn đầu tư, làm gia công và lệ thuộc vào thương hiệu của các công ty nước
ngoài. Nếu vì một tình hình chính trị xã hội nào đó mà các nhà đầu tư rút vốn,
thì nền kinh tế Việt Nam sẽ rất dễ lâm vào tình trạng bị động không ít nguy
hiểm. Điều quan trọng là chúng ta chưa biết phát huy hết năng lực cạnh tranh
của nền kinh tế quốc dân, của doanh nghiệp và sản phẩm dịch vụ còn thấp, làm
cho Việt Nam chịu thua thiệt trong quá trình hội nhập.
Trong quá trình toàn cầu
hoá hiện nay, không có nước nào là không có sự lệ thuộc vào thế giới bên ngoài,
các quốc gia lệ thuộc lẫn nhau. Vấn đề là ở chỗ làm sao chuyển từ lệ thuộc một
chiều và thụ động sang sự lệ thuộc hai chiều và chủ động. Trên hướng đó, chúng
ta chưa làm được bao nhiêu.
2. Những thách đố
trong cuộc đua trên thị trường thế giới hiện nay đang đặt ra cho Việt Nam nhiều
vấn đề. Lợi thế cạnh tranh của Việt Nam hiện nay rất kém. Nhiều
mặt hàng Trung Quốc rẻ hơn và tốt hơn hàng Việt Nam. Trong những lĩnh vực dệt
may, chế biến nông sản, thủ công mỹ nghệ, điện máy.... Việt Nam chưa ganh đua
nổi với thế giới, thậm chí cũng chưa ganh đua nổi với các nước khác ngay trên
thị trường Việt Nam. Không chỉ trong lĩnh vực như xuất khẩu hàng hoá, mà cả
trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, nhiều nước trong khu vực vẫn có ưu thế hơn
Việt Nam.
Cũng phải tính rằng hiện
nay tốc độ tăng trưởng của Việt Nam là khả quan. Nhưng trong cuộc đua này không
chỉ có vấn đề tăng trưởng. Nhiều nước trong khu vực đang có những bước tiến
mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực như cải cách thể chế, mở rộng thị trường, thu hút
đầu tư, cải tiến công nghệ, tăng khả năng hội nhập và ứng phó với thị trường
thế giới .... Về những mặt đó, chúng ta vẫn đang thua kém nhiều nước trong khu
vực.
3. Cho đến nay Việt
Nam vẫn chưa có được những mũi nhọn về kinh tế trên thị trường thế giới.
Hàng chục năm qua, chúng ta đã từng rất cố gắng tìm kiếm những mũi nhọn. Nhưng
có lẽ chính vì chúng ta xác định những mũi nhọn không đúng nên đến nay chúng ta
bị méo mó về mặt kinh tế, không có nổi những cái gọi là mũi nhọn thực sự. Đi
vào thị trường thế giới mà không có những mũi nhọn kinh tế thì khó có thể nói
đến một sức mạnh lâu bền. Tính chất lệ thuộc, tính chất bị động trong một chừng
mực rất lớn cũng chính là vì chúng ta không có điểm mạnh, không có mũi nhọn.
4. Về công nghiệp, chúng ta
đã có những bước phát triển khá. Trong thời kỳ công nghiệp hoá theo mô
hình cũ, chúng ta không thành công bao nhiêu, mặc dầu đầu tư lớn. Từ thời kỳ
đổi mới, công nghiệp đã có những khởi sắc theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Nhưng cho đến nay tất cả nền công nghiệp của Việt Nam vẫn chỉ là công đoạn
2 của nền công nghiệp thế giới. Việt Nam chưa có nổi một hệ thống công nghệ
đầu nguồn. Nói đến công nghiệp như cơ sở để phát triển kinh tế, như
xương sống của một quốc gia, thì phải nói đến công nghệ đầu nguồn. Không nắm
được công nghệ đầu nguồn thì vĩnh viễn lệ thuộc vào những nước có công nghệ đó.
Chính đây là vấn đề của công nghiệp hoá hiện nay.
5. Nông nghiệp chúng ta có
mức tăng trưởng rất khá và đạt được những thành tựu đáng kể. Nhưng hiện nay đang
vấp phải những vấn đề về quan hệ xã hội, đặc biệt là quan hệ đất đai. Những vấn
đề về sở hữu đất đai còn rất nhập nhằng, do đó trong nông nghiệp vẫn chứa
đựng tiềm tàng những khả năng bùng nổ rối loạn trong quan hệ xã hội và chính
trị.
Nông nghiệp còn có một vấn
đề nữa là hiện nay vẫn chỉ phát triển theo chiều rộng. Chưa có được những liên
kết theo ngành dọc, như kiểu mô hình mía đường Lam Sơn, nông trường sông Hậu.
Chừng nào chưa cơ cấu lại nông nghiệp theo mối liên kết ngành dọc như ở các
nước Tây Âu, chẳng hạn như có người giới thiệu với tôi về “hệ thống filière” ở
Pháp, và sau đó tôi có dịp tham quan một hợp tác xã ở một tỉnh của Pháp nhân chuyến
đi thăm Pháp năm 1994 và thấy rõ đây như là một tổ hợp lớn rất tự chủ. Sự tự
chủ trong sản xuất kinh doanh của nông nghiệp vẫn còn là một vấn đề. Anh em
nghiên cứu cho biết Mác từng nói về cách làm kinh tế nông nghiệp có hiệu quả
trong chủ nghĩa tư bản; Lê nin phân tích thêm: một trại chủ có đất đai của
mình, có công nghệ của mình, có lao động của mình (thuê nhân công) và có thị
trường của mình - đó là mô hình mà chúng ta vẫn đang hình thành một cách rất
nham nhở về nhiều phương diện. Có thể nói, hiện nay nông nghiệp, nông thôn và
nông dân đều có vấn đề cần phải giải quyết một cách cơ bản.
6. Đầu tư của nước ngoài
vào Việt Nam trong những năm qua là khả quan. Nhưng hầu hết đó là
những nhà đầu tư cỡ nhỏ và trung bình. Việt Nam có quá ít những nhà đầu tư
cỡ lớn có tầm ảnh hưởng quốc gia và quốc tế. Chính những công ty đầu tư vốn lớn
đó là những lực lượng ảnh hưởng mạnh tới thái độ của chính phủ nước họ. Chỉ khi
nào đã có những nhà đầu tư cỡ lớn đó, thì thái độ của các chính phủ đối với
Việt Nam mới khác đi. Đó cũng chính là một trong những giải pháp để tìm cách
“khoá nhau”, “cài nhau” trong các quan hệ quốc tế.
7. Nơi chứa đựng những
bệnh tật nặng nề nhất của Việt Nam chính là hệ thống ngân hàng tài chính và
tiền tệ. Có thể nói quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước ngân hàng – các
xí nghiệp quốc doanh đang chứa đựng nhiều tiêu cực, nhiều sai phạm, làm méo mó
nền kinh tế. Nếu hội nhập, nếu vào WTO, thì những tiêu cực này càng bộc lộ rõ
ra. Nếu chúng ta không tự xử lý trước, để quốc tế xử lý, thì hậu quả sẽ rất
nặng nề, không chỉ về mặt kinh tế mà về cả mặt chính trị.
8. Trong công cuộc
đổi mới đã nảy sinh nhiều vấn đề xã hội và văn hoá nhức nhối và bức xúc :
Những tệ nạn xã hội và tình trạng tham nhũng đã làm méo mó các quan hệ kinh tế.
Rất nhiều những lợi ích kinh tế này sinh trong quá trình đổi mới đã bị “ăn hót”
bởi những bàn tay tham nhũng, nhân danh quyền lực nhà nước.
Cùng với những tệ nạn này,
là bước chuyển hoá của những nhà kinh doanh từ đậm đà lý tưởng sang quá ham lợi
ích. Hiện nay, Việt Nam không còn những nhà kinh doanh đầy lý tưởng như Bạch
Thái Bưởi, Nguyễn Sơn Hà, Đỗ Đình Thiện, Trịnh Văn Bô, Kha Vạn Cân .... Cuộc
cải tạo công thương nghiệp đã bóp chết những lý tưởng đó. Phục hồi lại nó không
phải là điều dễ dàng. Kinh doanh mà không tính đến lợi ích thì không còn là
kinh doanh. Nhưng kinh doanh mà chỉ vì lợi ích thì sẽ chứa sẵn trong nó không
ít nguy cơ.
9. Sự bất cập của hệ
thống các thiết chế kinh tế, của bộ máy quản lý nhà nước và đội ngũ các chuyên
gia.
Chúng ta đã có những cố
gắng rất nhiều trong việc sửa đổi và hoàn thiện hệ thống các thiết chế. Nhưng
tốc độ đó không theo kịp tốc độ phát triển của kinh tế và những thay đổi tình
hình của thế giới mà chúng ta đang hội nhập.
Bộ máy nhà nước hiện nay
vẫn rất bất cập trong việc xử lý các vấn đề kinh tế. Đội ngũ chuyên gia đầu đàn
của chúng ta tuy đã được đào tạo nhiều năm rất công phu, vừa qua cũng đã được
đổi mới rất nhiều, nhưng cho đến nay đó vẫn là một đội ngũ còn ít khả năng tư
duy kinh tế, nhìn xa trông rộng, lượng định những vấn đề và lựa chọn những giải
pháp khôn ngoan. Các cơ quan nghiên cứu của chúng ta cũng lâm vào tình trạng
những “mỹ viện”. Việc mổ xẻ những vấn đề kinh tế chưa đến chốn hoặc chưa
được khuyến khích nêu lên những suy nghĩ trung thực. Trong khi đó thì các tổ
chức quốc tế thường chỉ đưa ra các “kịch bản” hơn là những chương trình thiết
thực với Việt Nam. Hầu hết các nhà nghiên cứu Việt Nam đều lệ thuộc vào kinh
phí của các “kịch bản” đó. Nhiều nhà khoa học trong các viện nghiên cứu của
Việt Nam, trong số đó có những cán bộ được đào tạo rất có bài bản từ nhiều
trường Đại học và Viện nghiên cứu nổi tiếng của nước ngoài, có trình độ chuyên
môn nghiệp vụ tốt, song vẫn chủ yếu đi làm thuê cho các tổ chức nước ngoài. Các
tổ chức này khôn khéo khai thác và sử dụng những chuyên gia của Việt Nam vì họ
vừa có trình độ cao vừa am hiểu tình hình Việt Nam mà tiền thù lao lại thấp so
với lương của người nước ngoài đến đảm trách công việc này. Đây là một sự lãng
phí rất lớn, nhiều cán bộ khoa học đã xót xa trình bày nhiều lần trong tổ chức
song tình hình vẫn chưa được cải thiện.
Có thể nói cả bộ máy quản
lý, bộ máy hoạch định chiến lược và bộ máy tham mưu của chúng ta vẫn không thay
đổi bao nhiêu, vẫn rất già cỗi về mặt cơ chế và về phương pháp tư duy. Đã có
nhiều cán bộ tâm huyết lo âu đặt tên cho tình trạng đó là tình trạng “nhũn
não”. Đó là một nguy cơ lớn của đất nước.
Trong nguy cơ “nhũn não”
này, có vấn đề quan hệ giữa chính trị với khoa học. Các nhà nghiên cứu
của ta hiện nay vẫn bị ám ảnh bởi thân phận không mấy tốt đẹp trước đây của
những người có tư duy độc lập. Cách đối xử của lãnh đạo đối với khoa
học vẫn chưa khắc phục hết tình trạng đặt hàng, viết theo những ý kiến chỉ đạo
trước. Mối quan hệ đó hạn chế khả năng tìm tòi, khai phá, mà rút cuộc là có hại
cho Đảng.
10. Nguyên nhân của
các nguyên nhân kể trên chính là bản lĩnh của đội ngũ lãnh đạo từ cấp trung
ương đến địa phương. Có lẽ phải kiểm điểm, soát xét sâu và kỹ cách tuyển dụng
nhân tài và chính sách cán bộ. Trước đây, trong cuộc đọ sức với thực
dân Pháp, giữa nhiều lực lượng khác nhau, nào Trốt-kít, nào Quốc Dân đảng, nào
Bảo Hoàng ..., những người lãnh đạo đàn anh của chúng ta đã tỏ ra xuất chúng về
tinh thần đấu tranh cách mạng, vững vàng bất khuất trong các nhà tù, sáng suốt
trong việc xác định đường lối đấu tranh, trong lãnh đạo quần chúng ...., và do
đó được lịch sử lựa chọn như đội quân tiên phong của sự nghiệp cách mạng. Nhưng
sau khi Đảng ta được lịch sử lựa chọn, chúng ta đã tự lựa chọn mình theo phương
pháp khép kín. Điều đó tưởng như là một cách tốt nhất để bảo vệ Đảng, bảo vệ
đội ngũ cán bộ, thì thực ra có thể nó đã dẫn tới sự còi cọc. Nếu không nhìn
thẳng vào sự thật đó để sửa chữa thì sự còi cọc này còn kéo dài. Nguy cơ cũng
là ở chỗ đó.
Do thiếu tự tin nên thời
gian qua, Đảng ta mất khả năng quyết đoán với một tư duy đổi mới trước những
vấn đề cấp bách, vì thế đã bỏ lỡ không ít cơ hội. Vụ không ký hiệp ước thương
mại với Mỹ ở New Zeeland, không vào WTO trước Trung Quốc một bước thể hiện sự
ngập ngừng đó. Cứ như thế này thì rồi ra
những nước khác sẽ lợi dụng sự chậm chân của ta để nhích lên một nước cờ cho
họ.
3.
Suy nghĩ về một số định hướng cho tương lai
Bàn về những giải pháp cho
tương lai không phải là điều dễ dàng. Một cá nhân càng không thể nào hoạch định
được một chiến lược quốc gia, cùng lắm thì cũng chỉ là gợi mở những suy nghĩ để
tham khảo trong việc hoạch định chiến lược đó. Dưới đây là mấy gợi mở theo ý
nghĩa như vậy.
Trước khi đề xuất những ý
kiến khác nhau để cân nhắc, có một số ý yếu tố rất cơ bản sau đây mà dù lựa
chọn chiến lược nào thì cũng phải có :
1. Phải tăng cường và thay
đổi lại định hướng tình báo kinh tế.
Tình báo kinh tế cho đến
nay vẫn được hiểu là một hành động địch ta. Phương thức đó đã lỗi thời, tuy
không phải là không cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Bây giờ nội dung quan
trọng nhất của nó (về kinh tế) không còn chuyện địch ta, mà là chuyện hợp tác.
Trước đây, phần lớn các nước thường sử dụng tình báo kinh tế theo hướng đánh
cắp thông tin của đối phương, bảo vệ bí mật kinh tế của mình. Từ vài thập kỷ
trở lại đây, nhiều nước đã có những chuyển biến lớn. Trong đó có Anh, Trung
Quốc, Nhật là những nước đi đầu. Có nhà khoa học nói với tôi, chữ “economic intelligence”
phải được hiểu như là sự thám thính mọi nơi trên thế giới để tìm ra những cơ
hội, những kẽ hở nhằm phát triển kinh tế quốc gia. Như vậy, công tác tình
báo không nhất thiết là phản gián, mà thực chất là những hoạt động khai phá,
thăm dò và hoạch định chính sách.
Về mặt này, Việt Nam còn
rất yếu. Nếu chúng ta định mở rộng quan hệ với thế giới, ta không thể
không nắm bắt được những vận hội ở những nước mà ta muốn quan hệ, phát triển
những khả năng đầu tư, xuất khẩu, nhập khẩu, hợp tác. Ngoài ra còn rất
cần phải nắm vững luật pháp, xu hướng chính trị, những dự kiến trong tương lai
của đối tác.
Công tác tình báo kinh tế
theo hướng này không nhất thiết phải để ở Bộ Công an. Có thể đặt nó ở Bộ Ngoại
giao, phối hợp với các sứ quán nhưng cũng có thể để ở một cơ quan nghiên cứu.
Quy mô của tổ chức này không cần lớn. Quan trọng nhất là những “cái đầu” thông
minh và nhạy bén cảm nhận được mọi cái mới trên toàn cầu.
Để làm việc đó cần có 3
điều kiện rất quan trọng: 1/ Tập hợp thông tin. 2/ Độc lập trong việc xử lý các
thông tin trao đổi với những người hữu quan, kể cả phía đối tác. 3/ Đưa ra
những dự kiến có tính chất tiền chính sách.
Có thể nói rằng một bộ phận
như thế chưa có ở Việt Nam. Như thế là quá muộn nhưng muộn còn hơn không. Phải
bắt đầu nghĩ tới một tổ chức mang chức năng như trên.
2. Phải hình thành một mạng
lưới vận động lobby.
Không có một nước nào trên
thế giới muốn phát triển kinh tế mà lại không có lobby. Hoạt động này ở Việt Nam tuy đã có, nhưng cho đến nay
còn rất yếu. Mạng lưới này cần phải được giăng ra gần như khắp thế giới. Không
nên hiểu rằng khi cần giải quyết vấn đề ở nước nào thì phải có hoạt động lobby
ở nước đó. Thông qua những nước khác, thông qua toàn đại sứ của các nước khác,
có thể làm được việc này. Đây là một nghệ thuật, là một khoa học, mà cho đến
nay chúng ta còn rất ít chú ý. Những vụ như cá ba sa, nước đến chân chúng ta
mới nhảy, làm lobby không kịp. Trong những quan hệ với Trung Quốc, chúng ta hầu
như không có lobby. Với chính phủ Nhật, hoạt động này còn hết sức sơ sài, tuy
không phải không có những khả năng thuận lợi.
Một trong những chỗ dựa
trong lĩnh vực lobby là Việt kiều. Có lẽ khía cạnh hữu ích của Việt kiều không
phải chỉ là vốn đầu tư, cũng không phải chỉ là những kiến thức về kinh tế, khoa
học kỹ thuật, mà là những khả năng và kinh nghiệm lobby của họ. Về mặt này,
trong chính sách với Việt kiều chúng ta chưa lưu ý đúng mức. Kể cả đối với
những người Việt Nam chống cộng, ta cũng có thể dùng như những con dao hai
lưỡi. Họ có thể có ích cho chúng ta vì họ có ảnh hưởng chính trị trong một giới
nhất định ở phương Tây. Nếu khéo lợi dụng thì không phải họ không có khả năng
làm lobby một cách vô thức cho ta.
3. Phải dọn dẹp môi trường
kinh tế trong nước.
Như đã nói ở trên, công
cuộc đổi mới về cơ bản là một thành tựu rất lớn, nhưng vẫn còn tồn tại từ di
sản cũ và có nảy sinh thêm một số hiện tượng gây ô nhiễm môi trường kinh
tế. Trong đó không chỉ có tình trạng tham nhũng, mà còn có những trục
trặc về thể chế, về luật pháp, về tập tục. Nếu không thanh toán được
những sự ô nhiễm đó, khó có thể kêu gọi đầu tư, du lich, hợp tác, ở tầm cỡ lớn.
Về điều này, hình như chúng
ta còn chưa có được một sự thẳng thắn thừa nhận mà vẫn ít nhiều còn thái độ
lảng tránh.
4.
Một số gợi ý về chủ trương để tham khảo
1. Phải rèn tập cho xã hội Việt Nam một thói quen của
đời sống dân chủ.
Trong đó quyền tự do tư
tưởng, tự do ngôn luận, tự do nghiên cứu... cần được mở rộng hơn nữa. Hiện nay có nhiều vấn đề thực ra không còn đang coi là
huý kỵ nữa, nhưng vẫn là nghiêm cấm đối với giới nghiên cứu. Tại sao ở Trung
Quốc có thể làm phim về thời Cách mạng văn hoá mà ở Việt Nam không thể viết
chuyện, làm phim về thời kỳ cải cách ruộng đất, cải tạo tư sản. Văn kiện công
khai của Đảng đã phê phán những sai lầm đó. Sự kiêng kị này sẽ có tác hại giống
như một con người không quen với sương gió, bị giam kín lâu ngày trong nhà, khi
đi ra đường rất dễ bị cảm cúm. Chúng ta phải từng bước tháo gỡ những kiêng kị.
Phải làm sao để cho xã hội Việt Nam có sức đề kháng cao với việc phê phán tất
cả những sai trái. Những huý kị hiện nay tưởng là cách bảo vệ tốt cho hệ thống
chính trị của chúng ta, thực ra nó là một cách giữ gìn có tính chất bị động,
không tháo gỡ ra mà chỉ che dấu sự thật, tạo thêm ra những ung nhọt trong nội
bộ.
2. Thay đổi chỗ dựa quốc
tế, nói đúng hơn là thay đổi cách dựa trong quan hệ quốc tế.
Trước đây, Việt Nam tìm chỗ
dựa trong phe xã hội chủ nghĩa. Trong kháng chiến chống Pháp chỗ dựa trước hết
là Liên Xô và Trung Quốc. Trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ, Việt Nam tìm
chỗ dựa ở phe xã hội chủ nghĩa, ở phong trào giải phóng dân tộc. Trong một
chừng mực đáng kể ta đã thúc đẩy được phong trào phản chiến và tạo ra được chỗ
dựa rất quan trọng ở ngay các nước tư bản chủ nghĩa. Đó là một sự lựa chọn tài
tình, sáng suốt ít có trên thế giới.
Ngày nay, khi thế giới hai
cực không còn nữa, thì Việt Nam cũng như hầu hết các nước khác khó còn có thể
tìm được một chỗ dựa cụ thể ở một nước nào, một phe nào.
Chỗ dựa và cách dựa bây giờ
khác đi. Bây giờ không phải đi tìm một cường quốc nào đó, mà là cài đặt những
lực lượng khác nhau vào một thế thuận lợi cho Việt Nam. Cách đó nhiều nước đã
làm.
* Nhật trước đây cũng từng
dựa vào Mỹ, lấy việc đối đầu với Liên Xô để đòi Mỹ trả công về nhiều phương
diện. Bây giờ chỗ dựa kiểu đó cũng không còn. Nhật đã cài đặt các mối quan hệ
giữa các nước đó với nhau, khai thác các mâu thuẫn, củng cố các mối quan hệ
bằng lợi ích song phương, tạo ra lợi ích cho đối phương để tìm kiếm lợi ích từ
đối phương.
* Trung Quốc cũng vậy. Từ
chỗ đối đầu với Mỹ chuyển sang dựa vào Mỹ để đối đầu với Liên Xô, đến nay Trung
Quốc cũng không còn tìm một chỗ dựa nào khác ngoài việc lợi dụng các mối quan
hệ quốc tế. Trung Quốc đã cài đặt những quan hệ với Mỹ bằng cách xuất
nhập khẩu hàng hoá rẻ, tạo ra ở Mỹ một thói quen và một nhu cầu về nhập hàng
Trung Quốc, về đầu tư ngay trên đất Trung Quốc, về xuất khẩu sang Trung Quốc.
Lợi ích đó của tư bản Mỹ đã khoá tay chính giới Mỹ trong nhiều trường hợp. Đó
là cách dựa mới.
* Tây Âu cũng vậy.
Việt Nam cần đi theo cách
đó. Tình thế của Việt Nam khác với các cường quốc. Việt Nam là một nước tương
đối nhỏ, thế lực kinh tế không lớn, thị trường không hấp dẫn tới mức không có
không được. Do đó, cách xử lý của Việt Nam phải hết sức tinh vi, phải nghiên
cứu kỹ càng, tính toán nhiều bề. Những khả năng đó không phải là không có. Ta
đã có một bài học lịch sử là đối sách của Chủ tịch Hồ Chí Minh thời kỳ
1945 –1946. Thực lực của Việt Minh chưa có gì lớn. Nhưng Hồ Chí Minh đã cài đặt
được một tình thế quốc tế thuận lợi cho Việt Minh. Dùng những lực lượng OSS của
Mỹ để hăm doạ quân Tưởng Giới Thạch. Kéo Bảo Đại vào làm Cố vấn Chính phủ để
làm mất một chỗ dựa của các lực lượng khác. Đưa Quốc dân đảng vào Quốc hội để
vô hiệu hoá một phần lớn khả năng đối lập của họ. Ký Hiệp ước với Pháp để đuổi
quân Tưởng ra khỏi đất nước, tránh mối nguy cơ lớn nhất lúc đó, đồng thời trì
hoãn một cuộc chiến không thể tránh khỏi với Pháp.
Việt Nam ta hiện nay phải
lựa chọn: Hoặc không có một chỗ dựa nào nữa, hoặc phải tìm một tình thế quốc tế
tối ưu cho mình. Về điều này, cần phải có một đội ngũ chuyên gia giỏi, có tri
thức rất tốt về tình hình quốc tế, biết tính toán rất kỹ các phương án. Không
thể chỉ nói như là đã giải quyết được vấn đề.
Trên hướng này có thể nêu
một ý tưởng như sau làm thí dụ:
Tìm cách lôi kéo một số
công ty rất lớn của phương Tây, những công ty có tầm ảnh hưởng lớn đến chính
sách đối nội cũng như đối ngoại của các nước mà công ty mang quốc tịch. Nếu lôi
kéo được những công ty này vào cuộc, thì có khi về kinh tế chưa chắc có lợi
ngay, nhưng sẽ được những cái lợi lớn hơn về chính trị và quan hệ quốc tế. Để
làm việc này phải vận dụng cả ba yếu tố “cần” kể trên: tình báo kinh tế, làm
lobby, dọn dẹp môi trường. Nếu làm tốt các yêu cầu đó, ta có thể cài đặt những
mâu thuẫn giữa họ với nhau, giữa họ với những người khác, để làm sao kích thích
sự tranh giành uy tín, qua đó mà họ gắn bó với ta. Quan hệ kinh tế đơn thuần
giữa các công ty này (liên quan đến thị trường Việt Nam) có khi chỉ để giải
quyết những ảnh hưởng khác trên thị trường quốc tế, thì Việt Nam lại là một vấn
đề, do đó trọng lượng của ta được nâng lên, từ đó có được những tầm ảnh hưởng
nhất định tới các chính phủ phương Tây.
3. Phải tìm hiểu nhiều cách khác nhau để nâng tỷ lệ
thu hồi giá trị sản phẩm của Việt Nam trong giá trị của các sản phẩm liên
doanh.
Chúng ta biết, thí dụ như
trong ngành dệt may, 80% nguyên vật liệu là nhập khẩu. Do đó, cũng khoảng
70-80% giá trị của một chiếc áo, một chiếc quần là vào tay người nước ngoài.
Nếu tính trên con số thống kê về GDP hoặc sản phẩm xuất khẩu thì có vẻ rất cao,
nhưng phần mà người Việt Nam được hưởng không phản ánh đầy đủ trong đó. Trên
rất nhiều lĩnh vực, kể cả những hàng nông sản xuất khẩu, vẫn còn một tỷ lệ rất
cao của giá sản phẩm là thuộc về những công ty ngoài Việt Nam. Nếu chúng ta lọc
dầu sớm hơn, thì dầu thô có thể chuyển thành dầu thương phẩm và chúng ta đỡ một
khoản tiền rất lớn trong nhập khẩu. Nhờ đó trong giá bán của hàng loạt sản phẩm
Việt Nam, tỷ lệ năng lượng sẽ không thuộc các công ty nước ngoài, mà sẽ thuộc
GDP thực sự của Việt Nam.
Trong lĩnh vực dệt may,
chúng ta vẫn nấp bóng những công ty lớn có uy tín trên thị trường quốc tế để
đưa hàng của chúng ta vào. Theo cách đi đó, chúng ta chỉ kiếm được 15-20% giá trị
của mỗi cái áo, cái quần. Để thoát khỏi thân phận ấy, không phải chi đơn giản
là làm ra những mặt hàng đẹp, nguyên liệu tốt. Vấn đề là thương hiệu của Việt
Nam. Nhưng cái làm nên thương hiệu thì không phải chỉ là chất lượng sản phẩm.
Nó là loại “nhân duyên” của rất nhiều yếu tố. Việt Nam phải suy nghĩ, tính
toán, điều tra và khám phá để tìm ra những mối “nhân duyên” này. Hướng đó không
phải là không khả thi.
4. Khai thác tiềm lực có
sẵn với cách nhìn mới.
Để tìm kiếm những sức mạnh
nội lực, trước đây và cho đến nay chúng ta vẫn hướng theo cách đi tìm những khả
năng mới, những tiềm lực mới, những tài nguyên mới ....Thiết nghĩ từ nay, đồng
thời với việc tìm cái mới, cần “khai thác” một “tiềm lực” rất to lớn đã có sẵn,
nhưng bị chiếm đoạt. Tiềm lực đó không cần tìm ở đâu xa mà có thể giành lại
ngay cho đất nước, cho nhân dân, cho nền kinh tế, cho xã hội: Đó là những của
cải, những nguồn tài nguyên rất lớn đã bị nạn tham nhũng vơ vét, tệ lãng phí
hủy hoại.
Tham nhũng ở Việt Nam cũng
như ở nhiều nước khác, nhất là các nước XHCN cũ, phát triển dưới hai dạng đều
rất nguy hiểm: a. Tham nhũng của cải vật chất thông qua quyền hành. b.
Tham nhũng những giá trị trí tuệ, những danh vị cao quí bằng chủ nghĩa cơ hội.
Những giá trị đó là nguồn sức mạnh rất to lớn của đất nước. Tiềm năng đó đã bị
đánh cắp một cách phi pháp. Phải kiên quyết giành lại cho xã hội những giá trị
này. Chỉ riêng việc đó cũng tạo ra một sức mạnh rất lớn về nội lực.
Vừa qua Chính phủ đã thành
lập một cơ quan chống tham nhũng. Nhưng đó mới là cơ quan chống tham nhũng về
kinh tế. Còn một thứ tham nhũng nữa là tham nhũng về danh tước, chiếm lấy những
cương vị bằng cách chạy vạy, mua bán. Như đã nói, rất nhiều danh vị giáo sư,
tiến sĩ, phó tiến sĩ, thạc sĩ ...., không có thực chất, thực tài. Đưa những con
người như thế vào các vị trí điều hành đất nước, điều hành những cơ quan ở cấp
đầu não của quốc gia thì thật là nguy hiểm.
Đương nhiên cả hai
loại tham nhũng kể trên hiện nay đang có cương vị đáng kể trong xã hội. Họ sẵn
sàng cao giọng bảo vệ chế độ, tích cực chống bọn phản động tấn công vào Đảng,
vào chủ nghĩa xã hội! Thực ra là họ sợ hãi cho lợi ích bất chính của họ. Nếu
tiến hành chống hai loại tham nhũng này, có thể những loại người này từ chỗ
kiên quyết bảo vệ Đảng, bảo vệ CNXH chuyển thành phần tử bất mãn. Đó là điều
cần tính toán cẩn thận.
5. Về những mũi nhọn trong
phát triển kinh tế.
Nếu trên
thực tiễn kinh tế chưa có mũi nhọn, thì không nên miễn cưỡng đặt ra ngay những
mũi nhọn. Phải có thời gian và công sức đích đáng để tạo ra mũi nhọn.
6. Rất cần chú ý tới mối
liên kết chặt chẽ với các nước khối ASEAN.
ở trên có nói rằng thời đại
ngày nay thế giới không còn chia làm hai cực nên không còn chỗ dựa, hiểu theo
nghĩa thời chiến tranh lạnh. Hiện nay, trong thực tế, chúng ta chỉ có ASEAN là
chỗ dựa trực tiếp. Thời gian vừa qua, chúng ta chưa chú ý đúng mức để khai thác
khả năng này. Với các nước ASEAN, ngoài các quan hệ kinh tế chúng ta cần tạo ra
những lợi ích văn hoá và chính trị của các nước đó để “phòng co”. Trong quan hệ
với các nước này, không nhất thiết phải quá chú ý tới những lợi ích kinh tế. Có
khi Việt Nam chịu thiệt đi một phần nào đó, để kiếm những cái lợi lớn hơn.
7. Điều rất bức bách là
phải chuẩn bị đưa được những người của Việt Nam vào các chức vị cao trong
các tổ chức kinh tế quốc tế.
Mấy chục năm vừa qua chúng
ta rất lơ là việc này. Việt Nam không phải không có nhân tài. Nhưng ở Việt Nam
mấy thập kỷ qua nhân tài chỉ được dùng như những người “điếu đóm” cho lãnh đạo.
Nhân tài không có điều kiện phát triển. Hiện nay Thái Lan đã là Chủ tịch của
WTO. Họ còn định ứng cử chức Tổng thư ký Liên hợp quốc. ở hầu hết các quốc gia
Asean và nhiều nước đang phát triển khác trên thế giới, nếu cho họ chọn người
vào các vị trí như thế thì họ sẵn sàng có ngay được khoảng 5-10 người. Thử hỏi
hiện nay nếu các tổ chức quốc tế đặt vấn đề với Việt Nam chọn một người nào đó
làm Chủ tịch WTO hoặc Chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc hoặc một uỷ viên nào
đó, liệu có chọn được ai không? Đó là vấn đề.
Nếu chúng ta đưa được một
người nào đó vào các vị trí của các tổ chức quốc tế thì trọng lượng của Việt
Nam sẽ tăng lên. Một người Việt Nam giữ được một vị trí như thế có thể tạo ra
những lợi ích nhiều tỷ đôla. Còn về mặt chính trị và quan hệ quốc tế thì không
thể đo bằng đôla được. Nếu nước nào có người làm chủ tịch WTO chẳng hạn, Trung
Quốc cũng phải kiêng nể, Nhật Bản cũng phải kiêng nể, Mỹ cũng phải kiêng nể.
Việt Nam là một nước có một số đặc điểm lịch sử rất dễ được thế giới chấp nhận
một cương vị như thế. Nếu chúng ta khéo tuyên truyền vận động và điều quan
trọng nhất là có người sẵn sàng chuẩn bị, thì 5-10 năm tới chúng ta có thể đạt
mục tiêu này.
8. Mạnh dạn mở ra những
hướng mới.
Hai mươi
năm đổi mới vừa qua đã mở ra rất nhiều tiềm năng cho đất nước. Những tiềm năng
mà trong cơ chế cũ không phát huy được thì trong cơ chế mới đã bừng nở nhanh
chóng, có nhiều khía cạnh bất ngờ. Thí dụ: trước đây vì chúng ta phải trả nợ
cho các nước bạn nên phải đưa lao động đi nước ngoài. Hiện nay, ta đã tích luỹ
được ít nhiều về vốn, những nhà kinh doanh Việt Nam đã nắm bắt được một số kinh
nghiệm trong một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Thay vì cho người lao động
Việt Nam đi làm thuê cho nước ngoài, sống trong cảnh bị ngược đãi, tủi nhục tại
sao chúng ta không nghĩ tới việc mở đường cho các nhà kinh doanh Việt Nam ra
hoạt động ở một số nước trên thế giới, nhất là các nước kém phát triển. Chúng
ta đã bắt đầu có đầu tư sang một vài nước ngoài, song còn quá ít ỏi. Hiện nay,
nhiều nước Châu Phi và có thể một số nước Đông Nam á như Lào, Campuchia,
Mianma, Cu ba ...., là những nơi đang rất khó khăn về kinh tế, về vốn, về nhân
lực trong sản xuất, kinh doanh. Trong khi Việt Nam bị nhiều cường quốc kinh tế
khác lấn chiếm thị trường, tại sao Việt Nam không nghĩ tới việc bành trướng thị
trường đầu tư và sản xuất tới những nước khác? Nên chăng có thể học tập con
đường mà chúa Nguyễn Hoàng đã đi trước đây để tạo ra sức mạnh của mình, đối đầu
với phương Bắc, bành trướng về phía Nam, chiêu dân, lập ấp, mở mang bờ cõi. Tất
nhiên chúng ta hoàn toàn không có ý định đi “xâm lược” một nước nào. Nhưng có
rất nhiều nước, đặc biệt là Châu Phi hiện nay đất đai còn rất rộng, nhiều vùng
còn bỏ hoang. Tuy điều kiện thiên nhiên rất khắc nghiệt, nhưng nếu đầu tư khai
thác nguồn nước từ trong lòng đất chọn các giống cây thích hợp, thì có thể phát
triển các hình thức đồn điền sinh lợi cao. Điều đặc biệt thuận lợi cho
Việt Nam là quan hệ với các dân tộc Châu Phi đã có từ lâu. Trong khi người Châu
Âu không có khả năng khai thác nhiều, vì đụng chạm tới một quan hệ chính trị
nặng nề đã để lại từ thời kỳ chủ nghĩa thực dân. Nếu Việt Nam có quan hệ tốt
với chính phủ, với nhân dân địa phương, hợp tác giúp họ cùng phát triển, cùng
có lợi thì việc mở mang kinh doanh như sản xuất các mặt hàng công nghiệp dân
dụng, sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi ...., là điều hoàn toàn khả thi.
Nếu phát triển theo hướng đó, chúng ta có thể nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, sử
dụng được một nguồn lao động nông nghiệp đang dư thừa của Việt Nam, chứ không
chỉ là xuất khẩu lao động. Thị trường Châu Phi rất rộng lớn, nhưng sức mua thì
rất thấp. Những mặt hàng mà chúng ta đầu tư sản xuất tại đó với giá rẻ, chất
lượng bình dân có thể tìm được những sức mua tương ứng.
Trên hướng này, nếu chúng
ta không đi nhanh, thì người Trung Quốc sẽ chiếm hết địa bàn của chúng ta. Cuộc
thăm của Hồ Cẩm Đào vừa qua ở Cuba, ký kết giữa Trung Quốc với các nước ASEAN ở
Vientiane, cho thấy sự nhạy bén của họ, ta cần phải đặc biệt lưu ý.
Để thực hiện hướng phát
triển này nên để cho các công ty cỡ nhỏ đi thăm dò trước (kể cả tư nhân) thí dụ
lập trang trại, những công ty xây cất, trạm y tế, trường tiểu học, chế biến
nông sản, làm một số mặt hàng công nghiệp như sành sứ, đồ mộc, dệt may. Con
đường này cũng cần phải có những nhà nghiên cứu đi trước, rồi đến các nhà kinh
doanh. Nhà nước tìm mọi cách hỗ trợ. Hướng này cần được nghiên cứu tỉ mỉ để
hình thành một chiến lược phát triển.
Trên đây là những suy nghĩ
của tôi đóng góp vào bản tổng kết, mong được các đồng chí tham khảo.
Võ Văn Kiệt
Thư ông Võ Văn Kiệt
gửi BCT và Ban chấp hành Trung ương Đảng CSVN
11/10/2005
Vào dịp Ban chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 14
để hầu như hoàn tất những công việc chuẩn bị cho đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng ta, tôi xin trình bày
với các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị và toàn thể các đồng chí Uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Đảng một số vấn đề dưới đây:
I
Trong các thư của tôi gửi Ban chấp hành Trung ương khoá IX liên quan đến việc chuẩn bị Đại hội X, tôi đã trình bày những vấn đề tổng kết 20 năm đổi mới, chỉnh đốn và xây dựng Đảng, sửa đổi Điều lệ Đảng... Đó là những vấn đề liên quan đến vận mệnh đất nước trước bước ngoặt phát triển mới của tình hình thế giới ngày nay. Sự hưởng ứng mạnh mẽ vừa qua trong Đảng và trong nhân dân góp ý kiến xây dựng Báo cáo chính trị của Đại hội X (dự thảo) cho thấy có rất nhiều ý kiến tâm huyết và giàu trí tuệ đóng góp vào những vấn đề hệ trọng của Đảng và của đất nước. Đây chính là sự hậu thuẫn to lớn của cả dân tộc đối với sự nghiệp cách mạng nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây cũng là chỗ dựa vững chắc của Đảng ta. Mọi ý kiến tâm huyết đều biểu tỏ nguyện vọng thiết tha, mong sao Đảng ta thực sự chỉnh đốn để vững mạnh, vượt qua được nguy cơ lớn nhất hiện nay là những yếu kém trong hệ thống Đảng và Nhà nước, những suy thoái biến chất của một bộ phận cán bộ đảng viên, kể cả cán bộ cao cấp, làm mất lòng dân, suy giảm uy tín của Đảng. Có làm được như vậy mới tạo ra được sự bứt phá mới, đưa đất nước vươn lên thu hẹp khoảng cách tụt hậu giữa nước ta với thế giới, trước hết là thu hẹp khoảng cách với các nước ASEAN.
Trong các thư của tôi gửi Ban chấp hành Trung ương khoá IX liên quan đến việc chuẩn bị Đại hội X, tôi đã trình bày những vấn đề tổng kết 20 năm đổi mới, chỉnh đốn và xây dựng Đảng, sửa đổi Điều lệ Đảng... Đó là những vấn đề liên quan đến vận mệnh đất nước trước bước ngoặt phát triển mới của tình hình thế giới ngày nay. Sự hưởng ứng mạnh mẽ vừa qua trong Đảng và trong nhân dân góp ý kiến xây dựng Báo cáo chính trị của Đại hội X (dự thảo) cho thấy có rất nhiều ý kiến tâm huyết và giàu trí tuệ đóng góp vào những vấn đề hệ trọng của Đảng và của đất nước. Đây chính là sự hậu thuẫn to lớn của cả dân tộc đối với sự nghiệp cách mạng nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây cũng là chỗ dựa vững chắc của Đảng ta. Mọi ý kiến tâm huyết đều biểu tỏ nguyện vọng thiết tha, mong sao Đảng ta thực sự chỉnh đốn để vững mạnh, vượt qua được nguy cơ lớn nhất hiện nay là những yếu kém trong hệ thống Đảng và Nhà nước, những suy thoái biến chất của một bộ phận cán bộ đảng viên, kể cả cán bộ cao cấp, làm mất lòng dân, suy giảm uy tín của Đảng. Có làm được như vậy mới tạo ra được sự bứt phá mới, đưa đất nước vươn lên thu hẹp khoảng cách tụt hậu giữa nước ta với thế giới, trước hết là thu hẹp khoảng cách với các nước ASEAN.
Có thể nói sự hưởng ứng mạnh mẽ như vậy cho thấy sự day dứt của cả dân tộc ta trước những thử thách mà Đảng ta phải vượt qua. Rõ ràng cả nước đang kỳ vọng
rất lớn vào Đại hội X. Nếu kỳ vọng này không được đáp ứng, sẽ dẫn tới những hệ
luỵ khó lường.
Tình hình cấp thiết đến mức tôi còn muốn nhìn nhận sự hậu thuẫn mạnh mẽ của toàn dân như vậy đối với Đảng là một cơ hội không dễ
gì còn lặp lại để mỗi đồng chí chúng ta tỉnh táo nhận thức sâu sắc, tiếp tục
phấn đấu vươn lên, làm cho Đảng
ta xứng đáng là đội tiền phong chiến đấu của dân tộc, lãnh đạo đất nước đi tới mục tiêu
mà vì nó biết bao đồng chí và đồng bào thân yêu của chúng ta đã ngã xuống.
Sẽ hết sức nguy hiểm, nếu Ban
chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị khoá IX
chúng ta không thật sự tỉnh táo và nghiêm túc nhìn thẳng vào những suy thoái
và yếu kém kéo dài hiện nay trong Đảng, có nhiều mặt rất trầm trọng và đang lây lan trong mọi
lĩnh vực của đời
sống kinh tế - xã hội. Sẽ là hết sức nguy hiểm, nếu chúng ta không tỉnh táo,
mà lại quá say sưa với những thành tích đã đạt được, và cũng không loại trừ
những lời tán dương có dụng ý của
bên ngoài ru ngủ mình. Chỉ cần nhìn vào những vấn đề nóng bỏng trong phát triển
kinh tế - xã hội đang đặt ra cho nước ta hiện nay, những khó khăn và thách thức
nước ta phải đối mặt sau khi trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO), chỉ cần nhìn vào tình trạng uy tín của Đảng
và lòng tin của dân
đối với Đảng bị giảm
sút, sẽ thấy rõ sự nguy hiểm đó. Chúng ta cần nhớ lại lịch sử cách mạng nước ta
đã từng có những thời kỳ phải trả giá đắt cho bệnh say sưa thành tích và tự ru
ngủ mình.
Là người gánh chịu trọng trách về tình hình mọi mặt hiện nay của đất nước, Bộ Chính trị và
Ban chấp hành Trung ương khoá IX có trách nhiệm
nặng nề trong việc chuẩn bị cho Đại hội X. Bộ Chính trị và Ban chấp hành Trung ương khoá IX sẽ là người có
công rất lớn đối với Đảng
và đất nước nếu các đồng chí quyết tâm đảo ngược xu thế suy thoái hiện nay
trong Đảng, làm cho
Đại hội X mang lại cho Đảng
sức sống mới, làm cho Đảng
ta tiếp tục xứng đáng với truyền thống cách mạng vẻ vang của mình trên con đường đi
lên của đất nước.
Tôi xin kiến nghị Bộ Chính trị và Ban
chấp hành Trung ương khoá IX thẳng thắn
nêu lên những yếu kém trong Đảng, công khai
danh sách đề cử vào Ban chấp hành Trung ương khoá X
trong toàn Đảng để lấy ý kiến và để toàn
dân biết, góp ý. Việc làm này sẽ có ý nghĩa lịch sử to lớn, tăng thêm tính tiền
phong chiến đấu trong Đảng,
tăng thêm niềm tin và sự gắn bó của
nhân dân, ngăn chặn có hiệu quả nhất mọi phá rối trong vấn đề nhân sự. Chúng ta
hoàn toàn có thể làm được điều đó vì có sự hậu thuẫn to lớn của toàn Đảng và toàn dân ta. Tình
hình thúc bách đến mức nếu Đại hội X không tạo ra được bước ngoặt này, vận mệnh
của Đảng ta
và của đất nước ta rồi sẽ ra sao?
Tôi thiết tha mong Bộ Chính trị và Ban chấp
hành Trung ương khoá IX chuẩn bị mọi
điều kiện để Đại hội X phát huy trí tuệ và trách nhiệm cao nhất, bầu ra được Ban chấp hành Trung ương khoá X xứng đáng với
nhiệm vụ lãnh đạo của
toàn Đảng, toàn dân,
toàn bộ hệ thống chính trị và hệ thống quản lý Nhà nước, phát huy ý chí cách
mạng và trí tuệ sáng tạo, thu hẹp khoảng cách tụt hậu so với thế giới bên
ngoài. Đây là sứ mệnh cao cả không một ai có thể thay thế Đại hội - cơ quan
lãnh đạo cao nhất của
Đảng.
Từ những vấn đề lớn của
Nghị quyết đã được Đại hội thảo luận và thông qua, Đại hội cần giao nhiệm vụ
trọng tâm cho Ban chấp hành Trung ương khoá X thực hiện bằng
được nhiệm vụ củng cố Đảng
về mặt tổ chức, về kỷ luật trong sinh hoạt Đảng, về xây dựng Điều lệ mới với tính cách là
bộ Luật của Đảng chi phối mọi hoạt động của toàn Đảng và của từng đảng viên trong giai đoạn
phát triển mới của
đất nước, tạo ra được nền nếp mới trong sinh hoạt Đảng các cấp cho khoá này và các khoá sau.
Ban chấp hành Trung ương khoá X nhất thiết phải
là đội ngũ tinh hoa nhất của
Đảng, thực hiện được
nhiệm vụ lãnh đạo do Đại hội trao cho. Các cuộc họp Ban chấp
hành Trung ương là nơi phát huy dân chủ
và trí tuệ của Ban chấp hành Trung ương để thảo luận, ra các
quyết định và chính sách, vì vậy Ban
chấp hành Trung ương phải tập trung thời gian và trí tuệ
cho nhiệm vụ này, từng uỷ viện Ban
chấp hành Trung ương phải đủ năng lực và bản
lĩnh hoàn thành nhiệm vụ này. Không nên tái diễn tại tình trạng có lúc Ban chấp hành Trung ương biến thành nơi
"quán triệt" một chủ trương chính sách đã định trước, tình trạng có
uỷ viên Ban chấp hành Trung ương cả nhiệm kỳ chỉ một hai
lần tham gia phát biểu ý kiến. Tôi vẫn còn giữ được ấn tượng sâu sắc trong hoàn
cảnh chiến tranh khốc liệt, Trung
ương Cục ở miền Nam
khi đó vẫn giữ được sinh hoạt dân chủ, bàn thảo cặn kẽ, tranh luận thẳng thắn
và nghiêm túc để đạt được sự nhất trí trước khi đưa ra quyết sách. Ngày nay,
chúng ta có điều kiện, có phương tiện hơn nhiều, nhưng nhiều khi sinh hoạt của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lại chưa tạo ra được
không khí bàn thảo thẳng thắn, mạnh dạn và nghiêm túc trong tất cả các Uỷ viên Ban chấp hành Trung ương, đôi khi nặng về cung
cách "quán triệt" những vấn đề do Bộ Chính trị đưa ra. Phải
chăng do số lượng Ban
chấp hành Trung ương quá đông, không đủ thời
gian và thiếu không khí thuận lợi để bàn thảo. Đây là vấn đề nên được xem xét.
Khi Ban chấp hành Trung ương cần quyết định một vấn
đề gì lớn, chuyên sâu, đòi hỏi phải có những luận cứ thực tiến hay luận cứ khoa
học xác đáng, thì có thể mời các cán bộ chuyên trách, các chuyên gia đến bàn
luận, lấy ý kiến trước khi đi tới quyết định. Điều quan trọng là Ban chấp hành Trung ương phải có đủ năng lực và
bản lĩnh quyết định. Vì vậy, Ban
chấp hành Trung ương phải tinh gọn, thực sự
có năng lực và phẩm chất đúng với cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng giữa hai kỳ đại hội, có
điều kiện tập trung
trí tuệ và thời gian cho nhiệm vụ này. Yêu cầu này chẳng những đòi hỏi từng Uỷ
viên Ban chấp hành Trung ương phải có những tiêu chuẩn
đáp ứng tương xứng, mà còn đòi hỏi sinh hoạt của Ban
chấp hành Trung ương phải thực sự là nơi phát
huy dân chủ cao nhất, huy động trí tuệ và trách nhiệm của toàn thể Ban chấp hành Trung ương trong việc thảo luận,
quyết định những vấn đề có ý nghĩa đối với vận mệnh của Đảng,
của đất nước. Để gìn
giữ sự trong sáng của
Đảng, đồng thời luôn
luôn nâng cao được phẩm chất và bản lĩnh lãnh đạo của Ban
chấp hành Trung ương, cần khắc phục tình
trạng tiêu cực thủ tiêu đấu tranh "dĩ hoà vi quý". Ban chấp hành Trung ương và từng Uỷ viên phải là
người nêu gương trong toàn Đảng
phát huy dân chủ và tập hợp được trí tuệ trong cả nước để tạo ra sức mạnh hoàn
thành mọi nhiệm vụ, kiên quyết đấu tranh chống lại mọi thoả hiệp vô nguyên tắc,
mọi sự phân biệt cục bộ, vùng, miền mà trên thực tế là làm suy yếu sự thống
nhất, nhất trí trong Đảng.
Đề nghị Bộ Chính trị và BCH Trung
ương khoá IX đặt vấn
đề với Đại hội X cần có những quyết định khắc phục tình trạng bố trí cán bộ
theo "cơ cấu", theo "kiêm nhiệm", theo lý lịch đã kinh
qua các cấp uỷ, theo các mối "quan hệ" trái với mọi nguyên tắc tổ
chức của Đảng và luật pháp của Nhà nước. Trên thực tế
cách bố trí người như vậy là ôm đồm, là "đảng hoá" hệ thống chính trị và hệ
thống Nhà nước, dẫn tới tình trạng làm suy yếu Ban chấp
hành Trung ương và các cấp uỷ khác, vừa
không sử dụng được người tài làm đúng việc. Hệ quả là cứ sau mỗi khoá, chất
lượng các cấp lãnh đạo của
Đảng từ Ban chấp hành Trung ương trở xuống lại giảm sút
một bước, tạo ra nhiều sự chồng chéo làm suy yếu toàn bộ hệ thống chính trị và
hệ thống quản lý Nhà nước. Đây chính là những nguyên nhân đưa đến tình trạng
tha hoá, tham nhũng, tiêu cực ngày càng trầm trọng trong Đảng và trong bộ máy quản lý
Nhà nước.
Trên đây là những vấn đề quyết định sự tồn vong và vai trò lãnh đạo của Đảng ta mà tôi đã day dứt,
nung nấu đêm ngày, xin chân thành bày tỏ với các đồng chí Bộ Chính trị và BCH Trung ương khoá IX, mong các đồng
chí xem xét.
II
Trên tinh thần đó, tôi xin kiến nghị Bộ Chính trị và BCH Trung ương khoá IX những vấn đề sau đây về việc tiến hành Đại hội.
Trên tinh thần đó, tôi xin kiến nghị Bộ Chính trị và BCH Trung ương khoá IX những vấn đề sau đây về việc tiến hành Đại hội.
1. Cần triệt để tuân thủ nguyên tắc Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng (dưới đây
gọi tắt là Đại hội) là cơ quan lãnh đạo cao nhất của
Đảng như đã quy định trong Điều lệ Đảng hiện nay, phát huy dân chủ, trí tuệ và sức chiến
đấu trong Đảng ngay từ khâu tiến Đại hội.
Bộ Chính trị và BCH Trung
ương khoá IX đã
triển khai quy trình chuẩn bị từ trên xuống, từ dưới lên mọi vấn đề để trình
Đại hội X, xin để cho Đại hội X xem xét và quyết định theo đúng Điều lệ Đảng. Điều này trước hết đòi
hỏi mỗi đại biểu của
Đại hội cần ý thức đầy đủ tính cách và trách nhiệm đại biểu của mình là một thành viên
bình đẳng trong cơ quan lãnh đạo cao nhất này của Đảng,
không phân biệt cương vị, quá trình công tác hoặc thâm niên tuổi Đảng. Mỗi đại biểu đều có
quyền tham gia đầy đủ vào mọi công việc của Đại hội, đều chịu trách nhiệm như nhau trước Đảng và nhân dân về mọi quyết
định của Đại hội X.
Ngoài sự chuẩn bị của
Bộ Chính trị và Ban chấp hành Trung ương khoá IX, Đại hội X có
thể nêu ra những vấn đề mới để xem xét và có những quyết định phù hợp, kể cả
quyết định về lượng thời gian họp mà công việc của Đại hội đòi hỏi.
Với những yêu cầu vừa trình bày trên, Đoàn chủ tịch của Đại hội phải được bầu ra
từ các đại biểu nắm vững những vấn đề của Đảng
và của đất nước, có
khả năng điều hành
chương trình nghị sự để Đại hội thành công cao nhất. Đoàn chủ tịch của Đại hội có vai trò rất
lớn trong việc phát huy dân chủ tại Đại hội. Vì những lý do này Đại hội cần
quyết định số lượng đại biểu tham gia Đoàn chủ tịch, tiến hành lựa chọn, đề cử, ứng cử
và bỏ phiếu kín để bầu ra Đoàn chủ tịch. Không cử ra Đoàn chủ tịch mang tính
chất đại diện tượng trưng và cơ cấu.
2. Về BCH Trung ương.
Xuất phát từ những yêu cầu đã trình bày về BCH Trung ương xin kiến nghị Đại hội X căn cứ vào những yêu cầu đã
trình bày về BCH Trung
ương để quyết định
số lượng uỷ viên BCH Trung
ương theo tinh thần
tinh, gọn, có khả năng và phẩm chất lãnh đạo cao nhất. Cũng vì thế đề nghị
không bầu Uỷ viên dự khuyết BCH Trung
ương, vì BCH Trung ương là cơ quan lãnh đạo, là
cơ quan chiến đấu, cần hội tụ những đảng viên ưu tú nhất của Đảng,
không phải là nơi đào tạo, càng không phải là nơi sắp xếp chuẩn bị nhân sự theo
cơ cấu và chức sắc. Thời bình Đảng
ta có nhiều điều kiện đào tạo cán bộ trong hệ thống đào tạo và trong thử thách
kinh qua thực tiễn.
Vì cần giảm bớt số Uỷ viên BCH Trung
ương khoá X với
những lý do đã nêu, sẽ có một số đồng chí đã được cơ cấu, sắp xếp trong quá
trình chuẩn bị Đại hội X, nay không thể đưa vào BCH Trung ương khoá X, Đảng
và Nhà nước sẽ bố trí vào những trọng trách thích đáng theo yêu cầu công tác và
theo quy hoạch cán bộ đã có.
Đối với địa phương hay ngành nào đòi hỏi phải có Uỷ viên BCH Trung ương trực tiếp phụ trách, thì
BCH Trung ương có thể bổ nhiệm các Uỷ
viên có năng lực thích hợp.
Với cách nhìn nhận việc thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng như vừa trình bày trên,
xin đề nghị Bộ Chính trị và BCH Trung
ương khoá IX đặt vấn
đề với Đại hội kiện toàn một số Ban
của Đảng như Ban Tổ chức, Ban Tuyên huấn, Uỷ ban Kiểm tra, đồng thời giảm
bớt một số Ban của Đảng tương ứng với các cơ
quan hoặc Bộ bên hệ thống Nhà nước. Trong các Bộ, các cơ quan, Tổng Công ty,
doanh nghiệp lớn... chỉ nên duy trì các cấp uỷ Đảng là Đảng đoàn, Đảng
uỷ. Không nên duy trì Ban
cán sự Đảng mà trên
thực tế chỉ là một cấp trung
gian, gây thêm những chồng chéo không cần thiết, khiến bộ máy các cơ quan làm
việc của Đảng cồng kềnh và kém hiệu
quả.
3. Về Bộ Chính trị và Tổng Bí thư.
Xin đề nghị Bộ Chính trị và BCH Trung ương
khoá IX đặt vấn đề với Đại hội: Các uỷ viên BCH Trung ương do Đại hội X bầu ra đều bình đẳng với nhau trong việc
quyết định số lượng, đề cử, ứng cử và lựa chọn các Uỷ viên BCH Trung ương có năng lực và phẩm chất
xứng đáng nhất bầu vào Bộ Chính trị theo đúng Điều lệ. Không tuỳ tiện đề ra
những quy định trái với Điều lệ như: quá trình công tác, thâm niên cũ mới, bằng
cấp các trường lý luận hay nhiệm vụ đã kinh qua trong các khoá trước. Cần quy
định rõ chức năng của
Bộ Chính trị là cơ quan thay mặt BCH Trung ương
giữa các kỳ họp BCH Trung
ương và phải báo cáo
trước BCH Trung ương về công tác của mình trong việc lãnh đạo
thực hiện nghị quyết của
Đại hội, để vừa tăng cường vai trò và trách nhiệm của Bộ Chính trị và BCH Trung ương, vừa làm rõ Bộ Chính trị
không phải là cấp trên của
BCH Trung ương, trung thành với nguyên tắc
toàn thể BCH Trung ương chịu trách nhiệm toàn
diện trước Đại hội toàn quốc, là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng giữa hai kỳ đại hội.
Mỗi Uỷ viên Bộ Chính trị chịu trách nhiệm như nhau về toàn bộ công
việc của Bộ Chính
trị đảm nhiệm trước BCH Trung
ương. Việc phân công
phụ trách các lĩnh vực khác nhau cho mỗi Uỷ viên Bộ Chính trị là phân công công
việc để cả tập thể Bộ Chính trị thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Việc phân công như
vậy chỉ là phương pháp làm việc và hoàn toàn không có ý nghĩa phân chia quyền
lực.
Vì lý do phát huy dân chủ trong Đại hội trong việc lựa chọn người xứng đáng
nhất vào cương vị lãnh đạo cao nhất trong BCH Trung ương và Bộ Chính trị, vì vai trò và trọng trách của Tổng Bí thư trong tình hình nhiệm vụ
mới của Đảng và của đất nước.
4. Về bầu cử tại đại hội:
Bầu BCH Trung ương: Bên cạnh những người có
tên trong danh sách do BCH Trung
ương khoá IX tiến
cử, tất cả các đại biểu Đại hội X đều có quyền đề cử và ứng cử. Các đại biểu
Đại hội cũng có thể đề cử thêm những đảng viên khác không phải là đại biểu Đại hội. Toàn bộ tên
những người trong các danh sách do khoá IX tiến cử, hoặc trong danh sách những
đại biểu ứng cử, những nội dung được Đại hội X đề cử, cần được sắp xếp trong
một danh sách chung theo thứ tự ABC, và Đại hội sẽ tiến hành bầu cử theo đúng quy
định của Điều lệ Đảng. Thực hiện thảo luận,
tranh luận công khai tại hội trường và tại các tổ để vận động, hoặc giới thiệu,
tự giới thiệu trong tiến hành
bầu cử, nhằm giúp các đại biểu có những thông tin cần thiết trước khi quyết
định bỏ lá phiếu của
mình cho ai.
Về cơ quan kiểm tra Trung ương.
Tình hình thực tế hiện nay là kỷ cương trong Đảng lỏng lẻo, suy thoái và tiêu cực phổ biến ở mọi cấp, nhiều nơi rất trầm trọng, Uỷ ban kiểm tra Trung ương với chức năng và nhiệm vụ như hiện tại không đảm dương nổi trách nhiệm của mình. Để kiểm tra và giám sát hoạt động của toàn Đảng và của BCH Trung ương khoá X một cách độc lập, xin đề nghị Đại hội trực tiếp bầu ra Uỷ ban Kiểm tra Trung ương, trao cho Uỷ ban Kiểm tra Trung ương mọi quyền hạn trực tiếp để thực hiện nhiệm vụ của mình, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương chịu trách nhiệm trực tiếp trước Đại hội.
Tình hình thực tế hiện nay là kỷ cương trong Đảng lỏng lẻo, suy thoái và tiêu cực phổ biến ở mọi cấp, nhiều nơi rất trầm trọng, Uỷ ban kiểm tra Trung ương với chức năng và nhiệm vụ như hiện tại không đảm dương nổi trách nhiệm của mình. Để kiểm tra và giám sát hoạt động của toàn Đảng và của BCH Trung ương khoá X một cách độc lập, xin đề nghị Đại hội trực tiếp bầu ra Uỷ ban Kiểm tra Trung ương, trao cho Uỷ ban Kiểm tra Trung ương mọi quyền hạn trực tiếp để thực hiện nhiệm vụ của mình, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương chịu trách nhiệm trực tiếp trước Đại hội.
Một số vấn đề quan trọng
khác
Những vấn đề đã trình bày ở trên chắc có nhiều việc các đồng chí Bộ Chính trị và BCH Trung ương cũng đã từng bàn bạc, song có lẽ vì công việc quá bề bộn chưa được giải quyết một cách dứt điểm, tôi xin phép được gợi lại như vậy. Sau đây, xin đề nghị thêm vài vấn đề về Điều lệ Đảng.
Những vấn đề đã trình bày ở trên chắc có nhiều việc các đồng chí Bộ Chính trị và BCH Trung ương cũng đã từng bàn bạc, song có lẽ vì công việc quá bề bộn chưa được giải quyết một cách dứt điểm, tôi xin phép được gợi lại như vậy. Sau đây, xin đề nghị thêm vài vấn đề về Điều lệ Đảng.
Qua những giai đoạn cách
mạng khác nhau, Điều lệ Đảng
đã được sửa đổi nhiều lần. Tình trạng các cấp từ Trung ương đến cơ sở vi phạm Điều lệ Đảng đang làm suy yếu nghiêm trọng tính chiến
đấu và tính tổ chức của
Đảng, cần nghiêm
khắc sửa đổi yếu kém này. Đặc biệt có một số việc vi phạm điều lệ Đảng đã được Bộ Chính trị kết
luận là nghiêm trọng và kéo dài, nhưng lại chưa được xử lý nghiêm minh đúng với
sai phạm. Vì vậy lần này không thể để tồn đọng nữa, Bộ Chính trị và BCH Trung ương khoá IX cần trình ra Đại
hội X xem xét và quyết định xử lý dứt điểm, càng để lâu càng nguy hại cho Đảng.
Ngày nay đất nước đi vào
một giai đoạn phát triển mới và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, đường lối của Đảng và luật pháp của Nhà nước có nhiều thay
đổi lớn, xin kiến nghị BCH Trung
ương chuẩn bị đưa ra
Đại hội X xem xét sửa đổi Điều lệ Đảng
hiện hành cho phù
hợp. Điều lệ mới nên làm rõ mối quan hệ lãnh đạo của Đảng
với hệ thống chính trị và hệ thống Nhà nước theo tinh thần cách mạng là sự
nghiệp của quần
chúng, phát huy sức mạnh và tính chủ động sáng tạo của Nhà nước và hệ thống chính trị, làm rõ vai
trò giám sát của
nhân dân đối với mọi hoạt động của
Đảng trong xây dựng
và bảo vệ Đảng (đã
ghi trong phần mở đầu của
Điều lệ hiện hành,
nhưng chưa được cụ thể hoá). Điều lệ Đảng phải là một bộ Luật của Đảng trong giai đoạn phát
triển mới của đất
nước, toàn Đảng và
từng đảng viên phải
nghiêm chỉnh chấp hành.
Việc tiến hành Đại hội Đảng các cấp 2 vòng gộp làm
một như đang làm hiện nay có nhiều điểm không thích hợp, dẫn đến tình trạng làm
ngược: Nghị quyết các đảng
bộ cấp dưới có trước Nghị quyết Đại hội toàn quốc - kể cả về nhân sự. Cách làm
này gây ra nhiều khó khăn cho việc quán triệt những nội dung mới của Nghị quyết mà Đại hội X
biểu quyết thông qua. Cần nghiên cứu khắc phục những bất hợp lý này.
Thưa các đồng chí.
Với những trăn trở, suy tư của một đảng viên suốt đời một lòng một dạ phấn đấu vì sự nghiệp của Đảng, của dân tộc, với lòng tin tưởng vào các đồng chí Bộ Chính trị và BCH Trung ương, tôi trân trọng và thiết tha trình bày với Hội nghị BCH Trung ương lần thứ 14 những kiến nghị nói trên để các đồng chí xem xét.
Với những trăn trở, suy tư của một đảng viên suốt đời một lòng một dạ phấn đấu vì sự nghiệp của Đảng, của dân tộc, với lòng tin tưởng vào các đồng chí Bộ Chính trị và BCH Trung ương, tôi trân trọng và thiết tha trình bày với Hội nghị BCH Trung ương lần thứ 14 những kiến nghị nói trên để các đồng chí xem xét.
Xin kính chúc các đồng
chí mạnh khoẻ, góp phần xứng đáng vào thành công của Đại hội X, đáp ứng được kỳ vọng thiết tha của toàn Đảng, toàn dân đang hướng về
Đại hội của chúng
ta.
Kính thư
Võ Văn Kiệt kKiệtiệt
Võ Văn Kiệt kKiệtiệt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét