Thứ Bảy, 30 tháng 9, 2017

Cùng nhau mở con đường cải cách, đưa đất nước vào thời kỳ phát triển mới

Một kiến nghị tâm huyết
Nguyễn Trung
Hà Nội – Võng Thị, ngày 27-09-2017
Bài viết về Dự án cải cách đất nước được học giả Nguyễn Trung suy nghĩ tâm huyết trong nhiều ngày. Do tầm bao quát của nó, để bạn đọc dễ theo dõi, Bauxite Việt Nam xin tóm tắt lại bằng cách chọn trích những đoạn thên chốt dưới dây, tập hợp lại, trân trọng đặt trong khung, để những ai không có điều kiện và thì giờ thì có thể nghiền ngẫm trong chừng ấy cũng đã nắm được phần cốt lõi.
***
“Nhiệm vụ lịch sử không được phép tránh né của đảng hôm nay là phải cất cái “bình” hiện nay vào nơi trang trọng nhất có thể trong bảo tàng – phần lịch sử Việt Nam cận đại, để đánh dấu sự kết thúc con đường đất nước đã đi từ năm 1930 đến hôm nay, để từ đây thông qua cải cách thể chế chính trị mở ra một thời kỳ phát triển mới của nước Việt Nam độc lập thống nhất trong thế giới đã sang trang.
“ĐCSVN hôm nay như đang là không có trí tuệ, phẩm chất và khả năng thực hiện nhiệm vụ lịch sử nó phải làm nói trên. Và nếu cố tình vẽ ra một nhiệm vụ như thế cho đất nước thì nó cũng không thực hiện được, nhân dân cũng không tin. 42 năm độc lập thống nhất đã chứng minh thuyết phục: Ngoài đổi mới 1986 là nỗ lực của cả nước, ĐCSVN như đang là cho đến nay chỉ có thất bại trong mọi nỗ lực cải cách, dù đấy chỉ là những cải cách ở quy mô các vấn đề từng phần hay cục bộ (ví dụ: cải cách giáo dục, cải cách hành chính, tinh giảm biên chế…). Đơn giản vì bản chất và lợi ích của ĐCSVN hôm nay đối kháng với cải cách, do đó nó coi những ý tưởng cải cách là suy thoái đạo đức chính trị tư tưởng, là tự diễn biến, đặc biệt đố kỵ trong các vấn đề như xóa bỏ “Điều 4”, hòa giải dân tộc, xã hội dân sự…
“Cần phải học nhiều nữa để thấm thía nỗi hèn kém và cả những hư hỏng của chính bản thân mình và của đất nước, do cái dốt, cái lạc hướng, và cái khiếp nhược trước quyền uy sinh ra – trong đó cần phải thấy sự hèn kém này chính là một trong các thành tố tạo nên dinh lũy kiên cố của chế độ toàn trị hiện nay, những bước bị khuất phục đã xảy ra trước sự bành trướng và thâm nhập các mặt của Trung Quốc, cũng như thói tự ti và sính phương Tây, sính theo cái này hay theo cái khác và quên mất chính mình là ai. Đã xảy ra không hiếm trường hợp hèn kém đến mức đánh mất hoặc để bị cướp mất tinh thần tự trọng dân tộc và thể diện quốc gia…
“Cần phải học bằng được hòa giải dân tộc, để hàn gắn vết thương tay trái chém tay phải đến hôm nay vẫn còn rỉ máu. Cần phải học bằng được điều này để làm cho quốc gia đủ mạnh và vững vàng, không để cho bất kể tình huống nào các mưu đồ hoặc quyền lực đen tối dù từ đâu tới lại có thể một lần nữa xô đẩy đất nước vào thảm họa nội chiến này. Và trên hết cả, cần thông qua hòa giải dân tộc, để có được sự cố kết dân tộc làm nên một quốc gia chẳng những có sức mạnh bất khả kháng với mọi thách thức từ bên ngoài, mà còn là môi trường nẩy nở các giá trị cao đẹp, là nơi nuôi dưỡng, làm bệ đỡ, và đồng thời là thành lũy bảo hộ cho mọi nỗ lực tinh hoa của từng công dân của nó…
Nội dung cải cách có thể phác họa một cách tóm lược như sau:
Thứ nhất: Mục đích cuối cùng và cũng là cao nhất cải cách chính trị ở nước ta hôm nay phải đạt được nên là: Từ hòa giải, đoàn kết và đồng thuận dân tộc quật khởi nên một quốc gia Việt Nam phát triển của toàn thể cộng đồng dân tộc Việt Nam chúng ta – đúng với tinh thần đã nêu từ Cách Mạng Tháng Tám: “Nước Việt Nam là của người Việt Nam!”, với các tiêu chí Dân chủ, Cộng hòa, Độc lập, Tự do, Hạnh phúc.
Thứ hai: Kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự là 3 trụ cột làm nên quốc gia vững bền, phải được xây dựng và phát triển từng bước thích hợp trong tổng lộ trình hình thành nên một nước Việt Nam phát triển, với các tiêu chí như đã nêu trong điểm thứ nhất.
Thứ ba: Thể chế chính trị cần phải xây dựng là một nhà nước pháp quyền dân chủ, có phân định rạch ròi các quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp, hoạt động ràng buộc nhau và kiểm soát lẫn nhau trong khung khổ chung của một Hiến pháp mới; nhà nước này được xây dựng và hình thành trên những nguyên tắc của bầu cử dân chủ. Kinh tế thị trường và xã hội dân sự là 2 yếu tố căn bản tạo dựng nên nhà nước pháp quyền này, vì lẽ này nhà nước pháp quyền dân chủ tất yếu phải được xây dựng trên nền tảng của thể chế chính trị dân chủ đa nguyên, được thiết kế theo một hiến pháp mới đúng với tinh thần nhà nước do dân, của dân, vì dân. Đây phải là cái đích cuối cùng và cao nhất của toàn bộ quá trình cải cách chính trị lần này, được thực hiện dần từng bước dựa trên mọi thành quả kinh tế - chính trị - xã hội và tiến bộ của quốc gia đạt được trong suốt quá trình tiến hành cải cách này.
Học hỏi là động lực trí tuệ xuyên suốt quá trình này – vì thế tôi gọi đó là thể chế chính trị đa nguyên của học hỏi, của giác ngộ, của phát triển, bởi vì nó được xây dựng từng bước và thường xuyên nâng cao theo tiến trình của giác ngộ và phát triển; nó khác hẳn với đa nguyên của bầy đàn, vô minh và hỗn loạn. Nói đơn giản: Đó là lấy mở rộng tự do dân chủ tạo ra giác ngộ của trí tuệ và đồng thuận xã hội làm động lực cho việc tiến hành cải cách, để từng bước xây dựng nên một thể chế chính trị mới. Vì thế có thể nói: Cải cách chính trị lần này là tiến hành những cuộc vận động chính trị lớn và sâu rộng trong toàn xã hội như đã từng làm thời Cách Mạng Tháng Tám nhằm thay đổi sâu sắc toàn diện đời sống đất nước.
Thứ tư: Các quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền sở hữu cá nhân, và các quyền con người phải được thể hiện đầy đủ và được bảo đảm trong Hiến pháp, đồng thời được phản ánh trong mọi bộ luật của quốc gia. Những quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp và lập hội, quyền biểu tình, quyền tự do báo chí phải được xem và thiết kế là những quyền trực tiếp bảo đảm việc thực hiện các quyền công dân và quyền con người, đồng thời những quyền này làm nhiệm vụ tạo nền móng cho sự hình thành và hoạt động của xã hội dân sự, mang lại động lực cho tiến hành cải cách. Quân đội, công an và các lực lượng chuyên chính khác là công cụ bảo vệ đất nước và giữ gìn an ninh quốc gia, được xây dựng và hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và luật pháp quốc gia, chỉ trung thành với quốc gia, với nhân dân.
Thứ năm: Toàn bộ các đảng phái chính trị, các loại hình hiệp hội cùng các thành viên của nó chỉ được hoạt động trong khuôn khổ của xã hội dân sự, trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật – bao gồm cả luật/các luật về các đảng phái chính trị, hiệp, hội, các tổ chức dân sự khác… Tất đều bình đẳng trước pháp luật, tự túc về tài chính và không được sử dụng tiền thuế của dân.
“Một khi những cá nhân của những tổ chức này thông qua bầu cứ dân chủ theo luật định được cử vào tham gia bộ máy nhà nước thì trở thành đại diện của các cử tri bầu cho họ, hoạt động theo Hiến pháp, chứ không đại diện cho các đảng phái hay các tổ chức chính trị xã hội xuất thân của họ. Khái niệm đảng cầm quyền chỉ thuần túy là tên gọi không hơn không kém cho đảng phái có nhiều thành viên (thường là chiếm đa số hoặc thông qua liên minh) tham gia chính quyền. Nghĩa là: Không có các đảng phái hay các tổ chức chính trị xã hội với tính chất là chính nó trong bộ máy và hệ thống pháp quyền của nhà nước, đây là đặc trưng cốt lõi “nhà nước do dân, của dân, vì dân”.
“ĐCSVN như đang là phải làm được 2 việc:
“(1) Phải nhận thức được đòi hỏi sống còn đưa quốc gia bước sang thời kỳ phát triển mới trong một thế giới đã hoàn toàn thay đổi là trách nhiệm ràng buộc của đảng; nếu ĐCSVN hôm nay từ chối không làm, chống lại, hoặc làm hỏng… đều sẽ đồng nghĩa với phạm trọng tội chống lại quốc gia, đảng không còn chính danh để tồn tại; nếu để xảy ra như thế, cái trước sau phải đến không thể tránh được sẽ là: Chế độ toàn trị sẽ dẫn tới “dân lật thuyền”, hoặc bị tha hóa làm cho sụp đổ, đất nước lâm vào đại họa, chôn vùi theo toàn bộ sự nghiệp của đảng;
“(2) đảng phải quyết tâm thay đổi chính mình trước, phải tin vào nhân dân, và tự tin chính mình, quyết đi cùng với nhân dân mở ra trang sử mới đổi đời này của đất nước. Làm được như thế, ngoài cái tha hóa và tham nhũng thối nát ra, đảng không có gì để mất! Nắm mọi quyền lực trong tay, đảng đã dẫn dắt đất nước đi vào tình thế đau lòng và hiểm nghèo hôm nay, đảng phải có trách nhiệm ràng buộc tự lột xác mở lối ra cho đất nước! Đảng ra đời từ yêu nước, hy sinh cứu nước đã làm nên sự nghiệp của đảng. Giữ được truyền thống này và có nhân dân, đảng sẽ thực hiện được sứ mệnh lịch sử mới này.
“Tôi trân trọng đề nghị: Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, với trách nhiệm là người giữ cương vị cao nhất trong đảng, yêu cầu Bộ Chính trị ra quyết định khép lại quá khứ, đoàn kết toàn Bộ Chính trị và toàn đảng, huy động toàn đảng và dựa vào trí tuệ của nhân dân cả nước quyết tiến hành cuộc cải cách chính trị không thể trì hoãn này. Đảng phải thay đổi thành đảng của dân tộc để có thể dấy lên cuộc cải cách của toàn dân cứu nước và đổi đời đất nước! Đây cũng là con đường cứu đảng thành đảng của dân tộc, mãi mãi đi với dân tộc. Thời gian không chờ đợi. Mọi thách thức trong/ngoài đang uy hiếp đất nước không biết chờ đợi!”
N.T.
Nội dung
I. Đòi hỏi sinh tử: Cải cách đổi đời đất nước, tr. 2
II. Cải cách phải là sự nghiệp của toàn dân, tr. 7
III. Cái đích phải tới, tr. 11
***
Phụ lục I – Về con đường cải cách đi qua ĐCSVN đã chuyển đổi trở thành đảng của dân tộc, Nguyễn Trung, tr. 17
Phụ lục II – Về chủ nghĩa Mác – Lênin, Nguyễn Trung, tr. 27
Phụ lục III – Về ĐCS Trung Quốc và ĐCS Việt Nam, Nguyễn Trung, tr. 35
Phụ lục IV – Về sự hình thành và phát triển xã hội dân sự ở Việt Nam - PHẠM KHIÊM ÍCH, tr. 40
*
Cải cách thường phải do một lực lượng chính trị có ảnh hưởng và quyền lực chi phối quốc gia tiến hành – ví dụ như đảng nắm quyền, chính phủ, một lực lượng chính trị mạnh áp đảo… Nhưng tôi vẫn đặt vấn đề cả nước cùng tham gia cải cách vì các lý do sau đây:

Thứ Ba, 12 tháng 9, 2017

Tôi đã nhầm ở đâu

Nguyễn Đình Cống
Ngày 2/9/2017 GS. Tương Lai tuyên bố từ bỏ Đảng Cộng sản (ĐCS) của Nguyễn Phú Trọng và “tiếp tục chiến đấu với tư cách một đảng viên Đảng Lao động Việt Nam như ngày tuyên thệ đứng vào hàng ngũ Đảng của Hồ Chí Minh”. Điều này tạo ra dư luận ủng hộ và phản bác.
Tôi yêu mến và kính phục GS Tương Lai, tôi ủng hộ, đề cao quyết định của ông từ bỏ ĐCS, thông cảm và tôn trọng ý của ông trong việc tiếp tục chiến đấu với tư cách đảng viên Đảng Lao động, đặc biệt là việc đó làm cho lương tâm ông thanh thản. Thông cảm và tôn trọng vì trong nhiều năm trước đây tôi cũng có suy nghĩ như ông, nhưng nay tôi không đồng tình. Vì sao vậy. Vì gần đây tôi bỗng ngộ ra rằng trong nhận thức của mình về cộng sản có cái gì đó nhầm lẫn. Tôi xin trình bày sự nhầm lẫn đó để cho những ai quan tâm có thể trao đổi.
Tôi có nghiên cứu về các loại nhầm lẫn và nguyên nhân, trong đời tôi cũng phạm nhiều thứ nhầm lẫn khác nhau, nhưng xin gác lại các chuyện đó mà chỉ trình bày vài nhầm lẫn về CS. Thực ra không phải tự tôi phát hiện được toàn bộ các nhầm lẫn mà cũng nhờ tham khảo ý kiến của nhiều người khác.
Nhầm thứ nhất: Đảng, dù là CS hay Lao động đều theo Chủ nghĩa Mác Lênin (CNML), đã lãnh đạo nhân dân làm Cách mạng và giành thắng lợi trong chiến tranh. Điều này làm tôi bị nhầm là nhờ CNML mà nhân dân ta giành được thắng lợi. Đúng là Đảng theo CNML, đúng là Đảng lãnh đạo nhân dân giành thắng lợi trong chiến tranh, nhưng cho rằng nhờ CNML mà có thắng lợi như vậy là nhầm, là phạm vào lỗi ngụy biện kiểu “vượt qua” hoặc “quy chụp”. Để biết rõ nhầm ở đâu chỉ cần đừng vội tin, đừng vội nghe theo lời tuyên truyền mà phải dùng phương pháp “truy chứng”, lần lượt đặt ra và trả lời các câu hỏi liên tiếp: Bản chất CNML gồm những vấn đề gì (duy vật, đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản, công hữu tư liệu sản xuất…). Nói nhờ CNML, cụ thể là nhờ cái gì, như thế nào. Đảng đã vận dụng CNML cụ thể vào những việc gì (cải cách ruộng đất, cải tạo tư sản, hợp tác hóa nông nghiệp, công hữu ruộng đất, kinh tế quốc doanh…), kết quả cụ thể như thế nào (chủ yếu là thất bại). Vậy không nhờ CNML thì nhờ cái gì mà Đảng lãnh đạo thắng lợi trong chiến tranh. Điều này xin tạm để mọi người lý giải. Từ 1986, Đảng chủ trương cởi trói, mở cửa, đổi mới, miệng thì nói vận dụng sáng tạo CNML, thực chất là làm ngược lại với nó.
Trước đây tôi vẫn cho rằng dù sao CNML cũng có mục tiêu tốt đẹp, đáng trân trọng, dù sao nó cũng có đóng góp vào sự tiến bộ của xã hội, cũng là một động lực làm cho chủ nghĩa tư bản phải tự biến đổi để phát triển như ngày nay. Đó là một sự nhầm lẫn giữa hình thức và nội dung, giữa hiện tượng và bản chất. Để vạch ra sự nhầm này cũng chỉ cần đặt ra và trả lời một số câu hỏi như: Sự phát triển của các nước Bắc Âu nhờ vào cái gì của CNML; Tại sao Singapore rất phản đối CNML mà phát triển được như vậy. Phải chăng nhờ CNML mà khoa học kỹ thuật phát triển như ngày nay…?

Thứ Tư, 6 tháng 9, 2017

LPK ĐÚNG, NHƯNG NHIỀU NGƯỜI KO ĐỌC HẾT BÀI CỦA ÔNG ::


"Giáo sư Tương Lai đang “đi giật lùi đến tương lai”!
Lê Phú Khải
6-9-2017
Xét về lý thuyết thì như thế, nên tôi mượn cụm từ “đi giật lùi đến tương lai” của tác giả Nguyễn Trần Bạt để làm đề từ cho bài viết này.
Giáo sư Tương Lai “quên” mất rằng, đảng Cộng sản của ông Nguyễn Phú Trọng là con đẻ của đảng Lao Động của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Với triết thuyết chủ nghĩa Mác-Lê nin, thể chế độc đảng, kinh tế tập trung quan liêu thì: ắt sẽ dẫn đến một đảng như đảng của Nguyễn Phú Trọng, khi Liên Xô sụp đổ, Việt Nam xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Khi chưa có chính quyền, đó là chính quyền non trẻ, còn phe xã hội chủ nghĩa, tuy chọn nhầm đường, nhưng những người cộng sản Việt Nam đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh còn giữ được chính danh “Trung với nước, hiếu với dân” nên đông đảo trí thức Việt Nam và quần chúng nhân dân đã đi theo đảng của lãnh tụ Hồ Chí Minh, trong đó có những trí thức tiêu biểu như giáo sư Tương Lai.
Nhưng bây giờ thì xã hội Việt Nam đã nát bét sau hơn 40 năm thống nhất đất nước dưới sự cai trị của đảng Nguyễn Phú Trọng. Vì thế những người tâm huyết như giáo sư Tương Lai đành phải đau xót chia tay với đảng Cộng sản.
Ông Bùi Tín cho rằng, giáo sư Tương Lai bỏ đảng Nguyễn Phú Trọng để quay về với đảng của Hồ Chí Minh đã “lẩm cẩm”! Nhưng tôi nghĩ, đất nước này đang cần những đảng viên “lẩm cẩm” như giáo sư Tương Lai! Vì, hàng trăm, hàng nghìn những đảng viên đương quyền hoặc đã nghỉ hưu ở Việt Nam hiện nay cũng nghĩ như ông Bùi Tín, thậm chí còn nghĩ sâu hơn… nhưng họ đều ngậm miệng ăn tiền, không dám hé răng nói một câu tử tế cho đất nước. Họ ngậm miệng để hưởng phú quý, mặc cho nhân dân điêu đứng lầm than, cho giặc Tàu bắn giết ngư dân ta trên biển Đông. Họ vẫn đến dự các lễ lạt kỷ niệm này nọ và nhận bao thư… Tôi xem truyền hình, thấy họ xuất hiện mà đau đớn cho dân tộc này. Hãy lẩm cẩm như giáo sư Tương Lai đi, cho nhân dân được nhờ!
Là một trí thức có tên tuổi, tuyên bố bỏ đảng như giáo sư Tương Lai có sức lay động và ảnh hưởng, thôi thúc nhiều đảng viên đã suy nghĩ và phải tiếp tục suy nghĩ về thời vận đất nước để tiến tới hành động. Ý nghĩa biện chứng, tích cực, cụ thể của giáo sư Tương Lai trong tuyên bố bỏ Đảng của ông là ở chỗ đó.

Một quyết định đúng đắn của giáo sư Tương Lai

 Nguyễn Đăng Quang
Đúng ngày kỷ niệm lần thứ 72 Quốc khánh (2/9/1945-2/9/2017), giáo sư Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học Việt Nam, người có 58 năm tuổi Đảng, đã công bố quyết định chính trị rất quan trọng của ông, đó là “Tuyên bố dứt bỏ mọi liên hệ với đảng Nguyễn Phú Trọng đang thao túng, để tiếp tục chiến đấu với tư cách đảng viên Đảng Lao động Việt Nam”. Quyết định này của GS Tương Lai đã và đang tạo nên nhiều ý kiến khác nhau cũng như sự đánh giá và bàn luận sôi nổi bên trong và bên ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN).
Chiều 2/9/2017, tôi tranh thủ đến thăm Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, cựu Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc, người đầu tháng Mười tới sẽ bước sang tuổi thứ 102 (cụ sinh ngày 1/10/1916). Cụ vẫn khỏe và minh mẫn, song không còn nhanh nhẹn như cách đây 3 năm nữa.
Lão tướng Nguyễn Trọng Vĩnh đánh giá quyết định của GS Tương Lai là đúng đắn và đúng thời điểm. Cụ nói: “Quyết định chính trị là tùy theo quan điểm, nhận thức và hoàn cảnh của mỗi người. Tôi tôn trọng và tán thành quyết định của anh Tương Lai khi tuyên bố từ bỏ và đoạn tuyệt với ĐCSVN của Nguyễn Phú Trọng. Song tôi đặc biệt đánh giá cao việc anh ấy vẫn nguyện tiếp tục chiến đấu với tư cách đảng viên Đảng Lao động Việt Nam…”.
Một vị cựu Đại sứ khác, nguyên Ủy viên Trung ương ĐCSVN viết trong Email gửi GS Tương Lai, xin trích: “Tôi xúc động không thể không viết ngay mấy dòng vắn tắt gửi GS để bày tỏ sự đồng tình hoàn toàn của tôi đối với những điều GS trình bày trong 2 văn bản này (tức Tuyên bố ra Đảng và Bản tường trình của GS Tương Lai viết gửi Đảng ủy Phường Tân Phong, Quận 7, Tp HCM) và sự ngưỡng mộ của tôi đối với GS, người chiến sỹ cộng sản, người trí thức, người công dân chân chính và tài năng!”

Lão tướng Nguyễn Trọng Vĩnh và GS Tương Lai (Ảnh chụp năm 2016)

Thứ Bảy, 2 tháng 9, 2017

TUYÊN BỐ DỨT BỎ MỌI LIÊN HỆ VỚI ĐẢNG NGUYỄN PHÚ TRỌNG THAO TÚNG ĐỂ TIẾP TỤC CHIẾN ĐẤU VỚI TƯ CÁCH ĐẢNG VIÊN ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM, ĐẢNG CỦA HỒ CHÍ MINH




Tôi là Tương Lai, vào Đảng Lao Động Việt Nam ngày 6.1.1959, đảng do Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo, sau này đổi tên thành Đảng Cộng sản Việt Nam, hôm nay 2.9.2017 tuyên bố dứt bỏ mọi liên hệ với Đảng của Nguyễn Phú Trọng đang thao túng, để tiếp tục chiến đấu với tư cách một đảng viên Đảng Lao Động Việt Nam như ngày tuyên thệ đứng vào hàng ngũ Đảng của Hồ Chí Minh.
Chọn hôm nay, ngày Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập tuyên bố trước thế giới và với quốc dân đồng bào lý tưởng và mục tiêu chiến đấu nhằm xây dựng một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thể hiện trong Hiến Pháp 1946 để đưa ra tuyên bố này là nhằm khẳng định lý tưởng và mục tiêu nhất quán của tôi, không hề là một quyết định nhất thời bởi những nhân tố ngẫu nhiên.
Cách nay 15 năm, trong một tiểu luận chính trị “Chân lý là cụ thể”, đúc kết lại những bài viết của tôi trong vòng 10 năm trước, tôi đã chứng minh là không có cái gọi là “chủ nghĩa Mác Lênin”, mà đó chỉ là sản phẩm của Stalin được làm méo mó thêm qua lăng kính Mao-ít để du nhập vào Việt Nam mà xác định đó là “nền tảng tư tưởng”, là “kim chỉ nam”, để rồi ai có ý định nghiêm túc cần cẩn trọng tìm hiểu từ thực tiễn Việt Nam và thế giới, từ những thành tựu nghiên cứu của giới khoa học quốc tế có uy tín, thì đều bị bịt miệng và quy cho tội phản động, chống đảng.
Trong tiểu luận ấy, tôi đã nghiêm chỉnh và thẳng thắn đề nghị cần trở lại với tên Đảng là Đảng Lao Động Việt Nam, trở lại với tên nước là Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng cho lý luận phát triển của Việt Nam. Ở đó, tôi trình bày rõ tư tưởng Hồ Chí Minh là sự tích hợp và vận dụng nhuần nhuyễn những thành tựu của trí tuệ loài người, trong đó có Phật giáo, Khổng giáo từng hòa quyện với truyền thống dân tộc đã chìm sâu trong kết cấu hạ tầng tâm lý xã hội Việt Nam và chủ nghĩa Mác. Với Mác, Hồ Chí Minh đã thực hiện một tiếp biến, loại bỏ những sai lầm về lý thuyết, giữ lấy những giá trị bền vững qua kiểm nghiệm của thời gian, tiếp thu và vận dụng sáng tạo những tinh hoa tư tưởng đó vào thực tiễn cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng con người của Việt Nam. Bằng cách đó, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự gặp gỡ lịch sử giữa truyền thống và hiện đại trong thế kỷ XX. Tiểu luận ấy tôi đã gửi đến Hội đồng Lý luận TƯ và nhiều vị lãnh đạo song chỉ có hai người có phản hồi và trao đổi trực tiếp là Thủ tướng Võ Văn Kiệt và Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Di bút của Đại tướng còn ghi rõ: “Chúc đc Tương Lai có những đóng góp mới vào lý luận của Đảng” Hànội ngày 27/9/2006. Võ Nguyên Giáp Đã ký”.
Kiên trì dấn thân vào cuộc đấu tranh trên bình diện tư tưởng và lý luận một cách công khai, tôi hy vọng bằng sự minh bạch đó, có thể góp phần nhỏ bé của mình cùng với những người khác làm thay đổi thực trạng của hệ tư tưởng giáo điều, bảo thủ đang dìm đất nước trong trì trệ lạc hậu, làm hao mòn sức sống của dân tộc trước một thế giới đang biến động từng ngày. Đấy là lý do để tôi nhẫn nhục tiếp tục ở lại trong Đảng cho dù biết rằng, những Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng, với sự hậu thuẫn trực tiếp của nhà cầm quyền Bắc Kinh đang thao túng Đảng thì không còn gì là Đảng của Hồ Chí Minh nữa. Nhưng cũng lại có một thực tế oái oăm là, hiện nay chưa có một lực lượng chính trị nào đủ mạnh để có thể thay thế được đảng đang nắm quyền bằng hệ thống “chuyên chính vô sản” được cài cắm đến tận cơ sở.
Cho dù vậy, sự phân hóa trong nội bộ các cấp, đặc biệt là ở cấp cao nhất, các nhân tố cấp tiến chống lại sự trì trệ bảo thủ giáo điều cũng là một thực tế. Đó là một tất yếu phổ biến của mọi thực thể sống, luôn diễn ra “cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng để tạo ra những cái mới mẻ tốt tươi” mà Hồ Chí Minh đã viết trong Di chúc. Cái mới sẽ thắng là không gì cản được. Bằng sự đấu tranh của từng đảng viên có lương tri, sự quyết liệt của của cuộc đấu tranh đòi dân chủ, đòi quyền sống trong các tầng lớp nhân dân đang dâng lên ngày càng mạnh mẽ thì những gì đã cũ kỹ, hư hỏng trong bộ máy quyền lực duy trì chế độ toàn trị phản dân chủ sẽ bị lật nhào. Vấn đề chỉ còn là thời gian.