Thứ Năm, 27 tháng 7, 2017

VÌ LỊCH SỬ VÀ CÔNG LÝ, CHÚNG TÔI LÊN TIẾNG

Chúng tôi, những nạn nhân còn sống và thân nhân những nạn nhân đã qua đời trong một vụ án không được xét xử cách nay vừa tròn 50 năm được gọi tắt là “Vụ án Xét lại chống Đảng”, một lần nữa phải lên tiếng vì sự thật và công lý, vì lương tâm và nghĩa vụ, vì một đất nước thượng tôn pháp luật.

BỐI CẢNH LỊCH SỬ.
Năm 1956, tại Đại hội 20 Đảng cộng sản Liên Xô, Bí thư thứ nhất Nikita Khrushev đã đọc báo cáo quan trọng về chống tệ sùng bái cá nhân Stalin và chủ trương “cùng tồn tại trong hoà bình” giữa hai hệ thống cộng sản và tư bản. Đường lối mới đã được hầu hết các đoàn đại biểu tán đồng tại Đại hội các đảng cộng sản và công nhân quốc tế họp tại Moskva với 81 thành viên tham dự năm 1960.
Đoàn đại biểu Đảng Lao Động (Cộng sản) Việt Nam (viết tắt theo tên mới ĐCSVN) do Chủ tịch Đảng Hồ Chí Minh cùng với Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn và các ủy viên Bộ Chính trị Trường Chinh, Nguyễn Chí Thanh tham dự đã ký vào bản Tuyên bố chung Hội nghị trên. Đường lối mới này đã bị Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) kịch liệt lên án, gọi là “Chủ nghĩa xét lại hiện đại”.
Sự thay đổi trong nhận định về quan hệ quốc tế đã phân hoá nội bộ một số đảng cộng sản. Trong ĐCSVN cũng xuất hiện hai luồng quan điểm khác nhau. Một bên ủng hộ “cùng tồn tại trong hoà bình”, phản đối sự rập khuôn đường lối giáo điều tả khuynh của ĐCSTQ, mở rộng dân chủ trong đảng cũng như trong xã hội, chủ trương hòa bình thống nhất đất nước, phát triển kinh tế đa thành phần.
Bên kia, theo đường lối của ĐCSTQ, chủ trương chống “chủ nghĩa xét lại hiện đại”, duy trì xã hội chuyên chính phi dân chủ, đẩy mạnh cải cách xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ hoàn toàn cơ chế kinh tế thị trường, kiên định chủ trương thống nhất đất nước bằng bạo lực.
Cuộc đấu tranh trong nội bộ diễn ra âm thầm nhưng căng thẳng đã kết thúc bằng nghị quyết của Hội nghị Trung ương 9 ĐCSVN họp năm 1963, đi ngược lại Tuyên bố chung Maskva 1960 đã được đoàn đại biểu Việt Nam long trọng ký kết. Nghị quyết 9 (phần đối ngoại), về thực chất là bản sao đường lối của ĐCSTQ đã khởi đầu cho cuộc trấn áp những đảng viên bất đồng chính kiến bị chụp mũ “chủ nghĩa xét lại hiện đại”. Cần lưu ý là Chủ tịch Hồ Chí Minh không tham gia biểu quyết nghị quyết này.
Toàn văn Nghị quyết 9 được giữ trong tình trạng tuyệt mật, nhưng nội dung tinh thần được phổ biến cho các đảng viên và trí thức. Vì có quá nhiều tranh cãi nội bộ nên Đảng tuyên bố cho phép bảo lưu ý kiến khác biệt. Thái độ cởi mở này chỉ là biện pháp để phát hiện những người không tán thành.

Thứ Tư, 26 tháng 7, 2017

Biến cố Đồng Tâm: HÃY GIỮ ĐÚNG CAM KẾT ĐỐI NGOẠI!

  -Nguyễn Đăng Quang-


         Sáng 20/4/2017, trả lời câu hỏi về biến cố Đồng Tâm sau khi người dân bắt 38 quan chức Đảng, Chính quyền và CSCĐ làm con tin khi lực lượng này được phái đến để cưỡng chế, giải tỏa phần đất đang tranh chấp giữa người dân với Tập đoàn Viettel nhằm đòi chính quyền phải thả 5 người dân bị các cơ quan chức năng đánh đập dã man và bắt đưa đi trái phép, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam tuyên bố: “Các cơ quan chức năng Tp. Hà Nội đang giải quyết tình hình theo đúng quy định của pháp luật, và bảo đảm quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan”! Đây là lần đầu tiên từ khi ĐCSVN cầm quyền, Bộ Ngoại giao Việt Nam, thông qua Người phát ngôn đối ngoại của mình, tuyên bố lập trường giải quyết một vấn đề thuần túy về mặt đối nội trong một cuộc họp báo quốc tế thường kỳ của Bộ Ngoại giao!
    Người viết bài này cho rằng Người phát ngôn Bộ Ngoại giao không thể ngẫu hứng tuyên bố về cách thức giải quyết một vấn đề nội trị thuần túy nếu không có chỉ thị của Lãnh đạo cấp cao. Và cũng không phải vô cớ Lãnh đạo cấp cao lại lệnh cho Bộ Ngoại giao chỉ đạo Người phát ngôn tuyên bố như vậy cả! Tất cả đều có nguyên nhân và lý do sâu xa của nó! Và như có sự phối hợp rất nhịp nhàng, chiều tối cùng ngày (tức rạng sáng ngày 20/4/2017 giờ Hoa Kỳ), Chủ tịch Hà Nội Nguyễn Đức Chung đột ngột về Huyện Mỹ Đức mời người dân Đồng Tâm lên gặp để “đối thoại”. Nhưng người dân “không dám” đến, cuộc đối thoại bất thành! Song người đứng đầu Hà Nội vẫn tuyên bố: “Chính quyền không sử dụng vũ lực tấn công vào thôn Hoành để giải cứu con tin!”. Hai việc trên tưởng như không có sự liên quan nào cả, nhưng thực ra đây là những động thái để đáp ứng một đòi hỏi đối ngoại! Người viết bài này được biết, một cường quốc rất quan trọng với Việt Nam đã dùng ảnh hưởng của họ khéo léo và tế nhị tác động qua con đường ngoại giao nhằm tìm cách tháo ngòi nổ, tránh cho bạo lực không xảy ra đối với người dân Đồng Tâm!
      Rồi ngay sau đó, như mọi người đều rõ, sáng 20/4/2017 tại Washington (giờ VN là tối 20/4/2017), Phó Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Phạm Bình Minh đã có buổi gặp với Cố vấn ANQG Hoa Kỳ H.R. McMaster và Ngoại trưởng Rex Tillerson “theo đúng lịch trình đã dự kiến”! Trong buổi gặp này, Ngoại trưởng Phạm Bình Minh trao thư của Chủ tịch nước Trần Đại Quang mời Tổng thống Donald Trump thăm Việt Nam và dự Hội nghị APEC vào tháng 11/2017 ở Đà Nẵng. Ngược lại phía Mỹ chuyển lời mời Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc sang thăm Hoa Kỳ. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã sớm thực hiện chuyến thăm này và gặp Tổng thống Donald Trump 30 phút tại Nhà Trắng vào ngày 31/5/2017! Ngay sau khi chân ướt chân ráo từ Mỹ về, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc lại tiến hành chuyến thăm chính thức Nhật Bản vào đầu tháng 6/2017! Nhiều nhà quan sát nói, nếu Việt Nam dùng vũ lực giải quyết biến cố Đồng Tâm, thì chắc chắn không có cuộc gặp giữa Phó Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Phạm Bình Minh với 2 quan chức hàng đầu của Chính phủ Mỹ hôm 20/4/2017, đồng thời Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng không thể tiến hành chuyến thăm Hoa Kỳ vào hôm 31/5/2017 được!

Thứ Tư, 19 tháng 7, 2017

XIN HỎI ÔNG TRƯƠNG MINH TUẤN.

-Nguyễn Đăng Quang-

        Chắc phải là người có tài tuyên truyền, thuyết khách nên mới hơn 1 năm làm Bộ trưởng Thông tin-Truyền thông, ông Trương Minh Tuấn lại nhanh chóng được cho kiêm nhiệm thêm chức Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương ĐCSVN. Gần đây ông không chỉ thể hiện là Tư lệnh “thép” trong lĩnh vực Thông tin-Truyền thông, mà còn chứng tỏ là người tiên phong và có kiến thức uyên thâm trong lĩnh vực kinh tế vĩ mô! Có lẽ đây là bước chạy đà, chuẩn bị cho xuất TBT sắp tới? Nếu đúng vậy, xin được chúc mừng ông!
       Cách đây không lâu, hệ thống thông tin-báo chí nhà nước đồng loạt đăng tải bài viết ca tụng “Sự phát triển ngoạn mục” của nền “Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa” với tiêu đề “Sức thuyết phục của Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa”, ký tên Trương Minh Tuấn. Tôi đoán tác giả đích thị là ông. Mặc dù ông rào trước đón sau là “không tranh luận về học thuật, mà chỉ đề cập đến các vấn đề thực tiễn trong quá trình phát triển của đất nước, và sự tiếp nhận của cuộc sống người dân, sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế đối với KTTT định hướng XHCN”. Song những độc giả, đặc biệt là những độc giả lớn tuổi không thể không thắc mắc, và muốn nêu lên những khúc mắc, mâu thuẫn rất cần tác giả giải đáp! Tôi không có ý định tranh luận với ông về học thuật, chỉ xin nêu vài khúc mắc cụ thể liên quan đến luận điểm mà ông cho là “được sự tiếp nhận của người dân, sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế đối với KTTT định hướng XHCN” được ông tô hồng trong bài viết của mình! Ý kiến ông thế nào, xin ông cho công bố công khai trên báo in và cả báo mạng do ngành ông quản lý, đồng thời, nếu có thể, xin ông vui lòng gửi vào hòm thư điện tử của tôi theo địa chỉ sau: DangQuang42@gmail.com. Tôi xin được trân trọng cám ơn ông nhiều!
    Dưới đây là 4 vấn đề cụ thể và ngắn gọn, nhờ ông giải đáp giùm:

Thứ Hai, 3 tháng 7, 2017

Trách nhiệm của Quân Ủy và Bộ Quốc Phòng

Bùi Tín Blog - VOA

Dư luận trong nước gần đây rộ lên nhiều nhận xét bình luận về trách nhiệm của Quân Đội Nhân Dân trong việc làm biến nhiều đất quốc phòng thời chiến tranh thành đất tư nhân của nhiều sỹ quan cấp cao, đặc biệt là các tướng thuộc Quân khu VII, Quân khu IX, trước khi về hưu. Các tướng nguyên Tư Lệnh, Chính Uỷ, Tham mưu trưởng đều được cấp vài chục hécta đất một cách bán chính thức, có thể nói là tư túi, không theo một chính sách công khai của Nhà Nước.
Tôi được biết tại các tỉnh, các Đảng Ủy và Bộ Chỉ huy tỉnh đội Bộ đội Địa phương cũng theo gương các Quân khu, chia chác đất Quốc Phòng cho nhau một cách tự do, hào phóng, bất chấp đó là tài sản công của quốc gia.
Trong chiến tranh, theo nhu cầu quốc phòng, nhiều vùng đất của tư nhân được trưng dụng để xây doanh trại, bãi tập, trường bắn, nhà máy quốc phòng, quân y viện, trường quân chính, sân bay lớn, sân bay dã chiến, sân bay dự bị, sân bay trực thăng, các ụ súng cao xạ, trận địa tên lửa và pháo phòng không, rải ra ở khắp nơi.

Chủ Nhật, 2 tháng 7, 2017

Nhân nhượng hay chiến tranh tại Biển Đông

Nguyễn Quang Dy
“Một dân tộc tìm cách tránh chiến tranh bằng cái giá của sự nhục nhãthì cuối cùng sẽnhận lấy cả sự nhục nhã và chiến tranh” (Winston Churchill).
Nhân nhượng Trung Quốc hay chiến tranh tại Biển Đông? Đó là cách nhìn bàn cờ Biển Đông bằng lăng kính trắng đen của một số học giả và chính khách phương Tây (và phương Đông). Về cơ bản, họ cho rằng đường lối cứng rắn đối với Trung Quốc là “diều hâu”, sẽ dẫn đến chiến tranh, vì vậy phải nhân nhượng Trung Quốc. Đó là quan điểm nhầm lẫn của một số học giả như Hugh White (Lowy Institute) hay Lyle Goldstein (Naval War College).
Hệ quả của nhân nhượng
Thực tế bàn cờ Biển Đông vốn phức tạp với nhiều ẩn số và biến số, cũng như Châu Á là một bức tranh mosaic nhiều màu sắc đa dạng. Không thể thay đổi được bức tranh đó, nhưng cần thay đổi cách nhìn về nó, mới có thể tìm được giải pháp hiệu quả. Không nhất thiết phải nhân nhượng hay chiến tranh với Trung Quốc như trò chơi một mất một còn (zero sum). Một đường lối cứng rắn không nhất thiết dẫn đến chiến tranh, mà có khi ngược lại.
Trong tám năm cầm quyền, Tổng thống Obama đã nhân nhượng Trung Quốc, tuy ông và Ngoại trưởng Hillary Clinton đề xướng chủ trương xoay trục sang Châu Á (hay tái cân bằng) và thúc đẩy Hiệp định TPP làm chỗ dựa để Mỹ và đồng minh kiềm chế Trung Quốc. Đó là một chủ trương đúng, nhưng thực hiện thiếu quyết liệt, vì nhân nhượng Trung Quốc. Tuần tra biển Đông (FONOPs) cũng làm chiếu lệ vì “đi qua vô hại” (innocent passage) như “tiếng kèn ngập ngừng” do Obama “lãnh đạo từ phía sau”. Một chính sách nhân nhượng như vậy (với lý do để tránh né chiến tranh) là phản tác dụng và có thể gây nguy hiểm cho khu vực.
Thứ nhất, Trung Quốc sẽ hiểu sự nhân nhượng đó là dấu hiệu nhu nhược, nên họ càng làm già, thậm chí còn tạo ra khủng hoảng để hù dọa chiến tranh (brinkmanship). Lãnh đạo Trung Quốc đã nắn gân Obama tuy có tư tưởng đúng nhưng thiếu quyết liệt nên họ không sợ, thậm chí coi thường. Vì vậy Trung Quốc đã tranh thủ chiếm bãi cạn Scarborough của Manila (2012). Trung Quốc biết Hạm đội 7 tuy rất mạnh, có nhiều tàu chiến và máy bay hiện đại, nhưng Nhà Trắng lại “non gan” (no balls). Lịch sử đã lặp lại từ năm 1974 khi Trung Quốc chiếm Hoàng Sa, và năm 1988 khi họ chiếm một phần Trường Sa, nhưng Mỹ không phản ứng.

TUYÊN BỐ VỀ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO QUỐC GIA VIỆT NAM CỦA CÔNG DÂN VÀ CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI DÂN SỰ VIỆT NAM

(cập nhật đợt 2: 10 tổ chức và 183 cá nhân ký tên, bổ sung phiên bản tiếng Đức bên cạnh các phiên bản Việt, Anh, Pháp đã có)
Ngày 27 tháng 6 năm 2017
Lần đầu tiên, một lãnh đạo Trung Quốc sang Việt Nam – tướng Phạm Trường Long – đã tuyên bố công khai, trực tiếp với lãnh đạo Việt Nam, rằng “vùng lãnh hải Biển Đông là thuộc chủ quyền Trung Quốc từ thời cổ đại”, điều mà Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã phát biểu tại Singapore sau khi rời Việt Nam, mà không dám nói khi còn ở Việt Nam.
Phạm Trường Long, đại diện lập trường bành trướng của Trung Quốc, đã tiến thêm một bước khiêu khích mới, đe dọa chủ quyền Việt Nam, đồng thời Trung Quốc tiến hành manh động gây hấn ở lãnh hải và một số điểm trên đất liền của Việt Nam.
Dù yêu chuộng hòa bình hữu nghị, và đã từng trải qua chiến tranh, nhân dân Việt Nam không sợ hãi và kiên quyết chống lại cuộc xâm lấn của nhà cầm quyền Bắc Kinh, như đã từng thể hiện qua lịch sử mấy ngàn năm chống giặc Tàu xâm lược.
Chúng tôi, các công dân Việt Nam và các hội đoàn xã hội dân sự Việt Nam, long trọng tuyên bố:
1) Phản bác và lên án các hành vi xâm lược lãnh hải, lãnh thổ Việt Nam của nhà cầm quyền Bắc Kinh đang diễn ra. Dù bất cứ tình huống nào, sự đánh trả của nhân dân Việt Nam để bảo vệ đất nước là tất yếu.
2) Nhân dân Việt Nam đồng lòng, đoàn kết, gác bỏ mọi khác biệt và ủng hộ tất cả các Nhà nước của Quốc gia Việt Nam ở mọi thời kỳ, trong cùng lập trường bảo vệ chủ quyền quốc gia, chống mọi hành động xâm lược.